Đòi nợ thuê gần như là một dịch vụ tất yếu của xã hội khi mà nhu cầu giao dịch cũng như việc vay tiền vẫn tồn tại. Dưới góc độ pháp lý, nhiều luật sư và các chuyên gia luật học cho rằng, những người đi đòi tiền nếu như không thượng tôn pháp luật thì cũng rất dễ bị vướng vào lao lý.
|
Hình minh họa. |
Tiềm ẩn nhiều khúc mắc
Theo quan điểm của Luật sư Nguyễn Văn Hậu, Chủ tịch Trung tâm trọng tài thương mại Luật gia Việt Nam, căn cứ theo từng nội dung cụ thể trong giấy vay nợ giữa hai bên đã giao kèo những điều khoản như thế nào để từ đó có những hướng đòi tiền đúng theo quy định.
Nhìn chung, với những giao dịch dân sự, không đúng theo các quy định cho vay của Ngân hàng nhà nước Việt Nam thì sẽ luôn làm nảy sinh những vấn đề khúc mắc khó giải quyết. Thực tiễn đời sống thường xuyên diễn ra các hoạt động vay mượn tiền với nhau.
Theo Luật sư Hậu, việc thu hồi tiền đã cho vay được thực hiện như sau: Nếu người vay tiền có hành vi gian dối ngay từ khi thực hiện giao dịch hoặc có hành vi tẩu tán tài sản, bỏ trốn... nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc sử dụng khoản tiền vay vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả thì hành vi của người đó có dấu hiệu phạm tội (tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” hoặc tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”).
Trong trường hợp này, người cho vay tiền cần làm đơn tố giác gửi cơ quan Điều tra, đề nghị tiến hành điều tra nếu có đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm thì khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can theo quy định của pháp luật.
Nếu xảy ra vụ án hình sự thì khi xét xử tòa án sẽ giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, theo đó người vay tiền vừa bị giải quyết về vấn đề hình sự vừa phải bồi thường số tiền chiếm đoạt cho người bị hại do hành vi phạm tội mà người vay tiền gây ra, theo quy định tại Điều 28 Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Nếu người vay tiền không có dấu hiệu phạm tội thì đây chỉ là giao dịch dân sự bình thường, việc không trả được nợ đúng hạn do nhiều nguyên nhân. Người cho vay tiền có quyền khởi kiện đến tòa án có thẩm quyền để buộc người vay tiền trả lại tiền.
Đây là giao dịch vay tài sản không có tài sản bảo đảm nên sau khi bản án có hiệu lực pháp luật của tòa án tuyên buộc bên vay phải trả tiền thì những tài sản của người vay (nếu có) sẽ được Cơ quan Thi hành án Dân sự kê biên, phát mại để thực hiện nghĩa vụ trả nợ của người vay tiền.
Nếu tài sản của người phải thi hành án đã được đem bảo đảm để thực hiện các nghĩa vụ dân sự khác như: đặt cọc, cầm cố, thế chấp… thì Cơ quan Thi hành án Dân sự sẽ ưu tiên trả các khoản nợ có bảo đảm, khoản tiền còn thừa mới được trả nợ cho những nghĩa vụ không có các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự - Luật sư cho biết.
Đòi tiền cũng phải đúng pháp luật
Liên quan đến lĩnh vực “nhạy cảm” này, Chính Phủ đã ban hành nghị đình số: 104/2007/NĐ-CP về kinh doanh dịch vụ đòi nợ. Các nguyên tắc của việc đòi nợ được quy định rõ tại Điều 4 của Nghị Định. Theo đó: 1. Chỉ những doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh dịch vụ đòi nợ mới được phép hoạt động dịch vụ đòi nợ.
2. Doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ đòi nợ không được kinh doanh các ngành, nghề và dịch vụ khác ngoài dịch vụ đòi nợ. 3. Doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ đòi nợ chỉ được thực hiện các biện pháp xử lý nợ phù hợp với quy định của pháp luật.
4. Hoạt động dịch vụ đòi nợ thực hiện theo hợp đồng ủy quyền được ký kết giữa chủ nợ hoặc khách nợ với doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ đòi nợ trong phạm vi quyền được pháp luật công nhận. Bộ Tài Chính cũng đã ban hành Thông tư số: 110/2007/TT-BTC hướng dẫn một số nội dung của nghị định 104/2007/NĐ-CP.
Sau gần 10 năm Chính phủ ban hành bộ khung cho hoạt động kinh doanh dịch vụ đòi nợ, mới đây Bộ Tài chính chủ trì cùng Bộ Công an xây dựng dự thảo thông tư sửa đổi, bổ sung thêm một số quy định mới cho loại hình dịch vụ khá nhạy cảm này.
Theo báo cáo của Bộ Tài chính, các công ty làm dịch vụ thu nợ ở VN ngày một nhiều, thời kỳ đầu tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn như Hà Nội, TP HCM, Đà Nẵng. Những năm gần đây được thành lập rải rác ở khắp các tỉnh thành khác nhau trên toàn quốc như Đồng Nai, Khánh Hòa, Hải Dương, Hải Phòng...
Các công ty đặc biệt “nở rộ” trong vòng 2 - 3 năm trở lại đây khi tình hình nợ xấu của các doanh nghiệp ngày càng nhiều, nợ khó đòi gia tăng. Chủ nợ dễ dàng có thể tìm thấy trên mạng các công ty dịch vụ thu nợ với “slogan” khá kêu như: “Tiền của bạn phải về túi của bạn”, “Nơi tài chính hồi sinh”, “Ở đâu có nợ ở đó có chúng tôi”...
Thế nhưng, đã là nợ khó đòi thì không hề dễ thu hồi. Lãnh đạo một công ty dịch vụ thu nợ hợp pháp, có giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự..., cho biết thực tế họ đang hoạt động khá trầy trật, vì “hành lang pháp lý còn chung chung, thiếu rõ ràng.
Bên cạnh đó, dư luận vẫn chưa có niềm tin đối với dịch vụ tương đối nhạy cảm này”. Thực tế này dẫn đến thời gian qua không ít đối tượng, thậm chí các công ty đã lợi dụng dịch vụ hợp pháp trên để bóp méo, biến tướng thành các kiểu đòi nợ thuê mang tính chất “xã hội đen” côn đồ, hành hung, đánh đập con nợ.
Cách đây không lâu, dư luận hãi hùng khi biết về vụ tra tấn một con nợ bằng cách bắt úp mặt vào xô phân, đấm đá... khi anh này không đủ khả năng chi trả khoản vay 200 triệu đồng. Tại TP.HCM, một công ty đòi nợ thuê đã cho người đến một doanh nghiệp kinh doanh xây dựng ở quận Bình Thạnh nằm luôn trên sô pha trong phòng giám đốc để “ăn vạ”.
Nhóm người “đòi nợ thuê” này còn theo dõi đến tận nhà riêng của ông giám đốc uy hiếp, đe dọa tính mạng của vợ con ông. Ranh giới giữa dịch vụ đòi nợ hợp pháp và bất hợp pháp vốn rất dễ bị xóa nhòa, nó lại càng mong manh hơn nếu quy định pháp luật thiếu rõ ràng, cụ thể.
Chính vì vậy, theo các chuyên gia, nếu thực sự muốn ngăn chặn những hậu quả đáng tiếc từ các kiểu đòi nợ bằng “hàng nóng, hàng lạnh”, các vụ khủng bố tinh thần con nợ..., rất cần thiết phải đưa ra những nghiên cứu, đánh giá kinh nghiệm, từ đó đúc rút lại thành các quy định thật chuyên nghiệp, cụ thể, rõ ràng.