“Trong bối cảnh nhu cầu về nguồn thực phẩm sạch đang cần thiết hơn bao giờ hết thì sự có mặt của doanh nghiệp ngoại sẽ tạo ra sự cạnh tranh và có ích cho người tiêu dùng”.
Tin nên đọc
Vua chúa kiểm soát thực phẩm sạch nghiêm ngặt thế nào?
Ra mắt Ban chủ nhiệm CLB Phóng viên đồng hành cùng thực phẩm sạch
Chính thức ra mắt CLB phóng viên Đồng hành cùng Thực phẩm sạch
Bộ Nông nghiệp phối hợp với Pháp luật Plus trong chương trình Đồng hành cùng Thực phẩm sạch
Vừa qua, 13 doanh nghiệp xuất khẩu thịt lợn Canada đã sang Việt Nam để tìm hiểu sâu hơn các cơ hội giao thương với các đối tác Việt Nam. Theo thống kê, xuất khẩu thịt lợn Canada sang Việt Nam năm 2015 đã tăng 230%.
Ngoài ra, theo một số nguồn tin, dù thất bại trong việc mua lại 14% cổ phần chiến lược tại Công ty Vissan của Việt Nam, nhưng Công ty CJ Cheil Jedang (Hàn Quốc) cho biết, công ty này dự kiến sẽ đầu tư thêm 500 triệu USD vào Việt Nam thông qua đầu tư trực tiếp, hoặc mua lại một số công ty thực phẩm tại Việt Nam.
Việc đầu tư thêm sẽ nâng tổng số vốn đầu tư của công ty này lên 900 triệu USD, với mục tiêu biến Việt Nam là trung tâm sản xuất lớn thứ hai (sau Trung Quốc) tại nước ngoài của CJ Cheil Jedang. Hiện nay, CJ Cheil Jedang đã có một trang trại, 4 nhà máy chế biến và một điểm bán lẻ tại Việt Nam.
|
Sự có mặt của doanh nghiệp "ngoại" trong lĩnh vực thực phẩm sẽ "kích thích" doanh nghiệp "nội". Ảnh: Internet |
Thêm một tập đoàn “ngoại” đang hướng về Việt Nam - đó là tập đoàn Techna (Pháp) - chuyên sản xuất và cung cấp các loại chất dinh dưỡng cho vật nuôi và cây trồng. Tập đoàn này đang coi Việt Nam là thị trường chiến lược để mở rộng kinh doanh tại ASEAN.
Tập đoàn này đã thành lập Công ty Techna Nutrition Việt Nam vào năm 2012 và dự kiến sẽ xây nhà máy vào năm 2018. Hiện nay, tất cả các sản phẩm của Techna tại Việt Nam đều được nhập khẩu trực tiếp từ Pháp.
Hay như hiện một số doanh nghiệp Hoa Kỳ đang có xu hướng chuyển sản xuất ra khỏi Trung Quốc - nơi chi phí sản xuất và lao động đang tăng mạnh - sang các thị trường phía Nam, trong đó có Việt Nam - nơi có rất nhiều tiềm năng trong việc sản xuất thực phẩm..
Trao đổi về làn sóng các doanh nghiệp ngoại đầu tư vào lĩnh vực thực phẩm sạch tại Việt Nam, ông Nguyễn Vũ Lộc - Giám đốc điều hành Công ty CP Chế biến thực phẩm xuất khẩu Miền Tây (TP. Cần Thơ) cho rằng, trong khi Việt Nam tràn ngập thực phẩm chất lượng kém, thì nhiều nhà đầu tư và doanh nghiệp nước ngoài đã và đang chớp cơ hội này để đầu tư các dự án chuỗi thực phẩm sạch tại Việt Nam.
Theo ông Lộc, Việt Nam có dân số hơn 93 triệu người, với nhu cầu về thực phẩm an toàn ngày càng tăng, cũng như thu nhập ngày càng được cải thiện.
“Điều này giúp các doanh nghiệp nước ngoài củng cố niềm tin rằng, họ sẽ rất thành công tại thị trường Việt Nam”, ông Lộc nói.
Cùng quan điểm trên, ông Vũ Vinh Phú, Chủ tịch Hiệp hội siêu thị Hà Nội nhận định, với hơn 90 triệu dân, người Việt cần 20 tỷ USD protein mỗi năm - điều này chứng tỏ thị trường Việt Nam đang rất tiềm năng đối với doanh nghiệp trong nước cũng như doanh nghiệp nước ngoài muốn đầu tư.
Tuy nhiên, đáng tiếc là doanh nghiệp Việt Nam đến nay lại chưa tận dụng được cơ hội này.
“Nguyên nhân là do ý thức kỷ cương, vệ sinh an toàn thực phẩm quá kém, đầu tư sai, phân bổ nguồn lực sai, đầu tư vào nông nghiệp giảm - chỉ bằng 1/36 so với Thái Lan và 1/136 so với Mỹ…”, ông Phú cho biết.
Vị đại diện của Hiêp hội Siêu thị Hà Nội cho rằng, đầu tư vào thực phẩm sạch vừa đem lại lợi ích cho doanh nghiệp, vừa nâng cao sức khoẻ cho người tiêu dùng. Đây là ngành đầu tư không quá khó và trên hết là cần phải có “ý thức”. Khi đó, doanh nghiệp trong nước cần phải bài bản, cái gì có thế mạnh thì làm trước .
“Chẳng hạn, doanh nghiệp trong nước có thể đầu tư vào thịt lợn sạch. Tập trung đầu tư rồi sau đó sẽ mở rộng sang các lĩnh vực khác như: gà, tôm, cá…chứ không nhất thiết ôm đồm một lúc nhiều thứ rồi lại không kiểm soát được chất lượng”, ông Phú nói thêm.
Tuy nhiên, chuyên gia kinh tế Nguyễn Minh Phong lại cho rằng, trong bối cảnh vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm tại Việt Nam đang trở thành cấp thiết thì yếu tố nguồn vốn ‘ngoại” đầu tư vào lại là cần thiết.
Dù điều này đáng lẽ ra doanh nghiệp “nội” có thể đảm nhiệm được và có nhiều lợi thế về thị trường nhưng họ lại đang trong tình trạng “làm không tới”, không biết làm vì quản lý chưa chặt, vẫn còn sự mập mờ giữa thực phẩm sạch và thực phẩm bẩn.
“Trong khi doanh nghiệp trong nước còn đang lúng túng do thiêu sự bảo vệ của thể chế, bán thực phẩm sạch có khi lại bị lỗ…thì các doanh nghiệp ngoại đã tận dụng thời cơ “đổ bộ” vào. Điều này theo tôi lại có lợi cho người tiêu dùng, đồng thời tạo sự cạnh tranh trên thị trường trong nước, kích thích doanh nghiệp nội...
Dù vậy, ông Phong cũng khuyến cáo doanh nghiệp ngoại khi đầu tư vào thực phẩm sạch ở Việt Nam cần phải “thật thà”, áp dụng những công nghệ hiện đại để chứng minh được chất lượng thực phẩm sạch thực sự, từ đó tạo lòng tin cho người tiêu dùng.