Dư luận đang chú ý đến việc Công ty Tân Thuận, doanh nghiệp có 100% vốn của Văn phòng Thành ủy TP HCM, ký hợp đồng chuyển nhượng 32,4 héc ta đất tại xã Phước Kiển, huyện Nhà Bè, TP HCM cho Công ty Quốc Cường Gia Lai thấp hơn giá thị trường nhiều lần, gây thất thoát tài sản nhà nước hàng ngàn tỉ đồng.
|
Ảnh minh họa. |
Câu chuyện y chang Đà Nẵng bán đất, công sản cho Vũ “nhôm” - đều quá rẻ đến mức “không chịu được”. Thôi, khoan hãy bàn đến thất thoát và trách nhiệm, xin nói về “góc” hành lang pháp lý của những câu chuyện “đặc thù”.
Câu hỏi được đặt ra hiện nay qua vụ việc này là liệu các doanh nghiệp (DN) trực thuộc các cơ quan Đảng có được xem là DNNN? (tất nhiên, trong vô số “đặc thù” còn có DN trong quân đội, công an; kể cả các tổ chức chính trị - xã hội khác).
Hiện nay, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại DN (Luật số 69/2014/QH13), cũng như nghị định hướng dẫn luật này, đều không điều chỉnh DN của các tổ chức Đảng lập ra mà chỉ điều chỉnh đối với phần vốn nhà nước tại các DN?
Còn Nghị định số 165/2017/NĐ-CP, được ban hành ngày 31/12/2017, quy định về việc quản lý, sử dụng tài sản tại các cơ quan Đảng thì nêu rõ phạm vi điều chỉnh của nghị định chỉ bao gồm các cơ quan của Đảng và đơn vị sự nghiệp của Đảng từ Trung ương đến địa phương.
Đồng thời nghị định cũng có quy định: việc quản lý, sử dụng tài sản tại các DN của Đảng thực hiện theo các quy định của pháp luật có liên quan, quy định của Đảng và điều lệ của DN.
“Văn bản pháp luật liên quan” là văn bản nào?
Chắc chắn là tìm chưa ra, giống như “bản đồ quy hoạch Thủ Thiêm”. Có một thực tế là phần lớn kinh phí cho việc xây dựng trụ sở cũng như quy trình hoạt động của các cơ quan Đảng được lấy từ ngân sách nhà nước. Đất đai do họ nắm giữ là công sản.
Có thể nói rằng nguồn vốn để thành lập các DN của các cơ quan Đảng là có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước. Vấn đề đặt ra là: lợi nhuận có được từ việc kinh doanh cũng như tài sản của các DN loại này phải chịu sự kiểm soát bởi pháp luật để tránh sự thất thoát tài sản, đầu tư không hiệu quả.
Khỏi phải nói các DN “con cưng” này chỉ cần ưu đãi trong chính sách; ưu đãi về thời gian như rút ngắn thời gian phê duyệt, đấu thầu; không bị thanh tra, kiểm tra các kiểu hỏi thăm; không mất tiền bôi trơn để có dự án, có hợp đồng… đã là “lợi thế so sánh” đáng kể so với các DN khác.
Lợi thế là thế, nhưng thử hỏi họ đã làm lợi như thế nào cho đất nước, đóng góp cho quốc kế, dân sinh như thế nào? Chắc chắn chưa trở thành “chuyên đề” để ai tổng kết.
Chúng ta hay kêu gọi tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, lành mạnh nhưng dường như xung quanh các thực thể “đặc thù” đang là những khoảng trống pháp lý?
Đã đến lúc phải sòng phẳng với nhau trong kinh doanh, kiểm soát những “đặc lợi” ở các thực thể “đặc thù”.