Rất nhiều người đã và đang thực hiện hành vi xem trộm điện thoại của vợ, của chồng và của con mình. Thậm chí, có nhiều người còn cài đặt cả những phần mềm để theo dõi, quản lý và giám sát điện thoại của vợ, chồng, con. Dù lấy nhiều lý do để bao biện cho hành động này, nhưng về lý mà nói, những hành động này có được pháp luật cho phép hay không?
Theo bạn, hành vi xem trộm điện thoại của vợ, chồng có vi phạm pháp luật? 1. Xem lén điện thoại của vợ, chồng là hành vi vi phạm pháp luật. 2. Xem trộm điện thoại, tin nhắn của vợ, chồng là điều hoàn toàn bình thường. 3. Vợ, chồng có quyền xem tin nhắn, điện thoại của nhau. |
|
Ảnh minh họa. |
Xem lén điện thoại là hành vi vi phạm pháp luật
Một bộ phận không nhỏ trong chúng ta đã coi việc xem lén điện thoại của vợ, chồng, con là việc quá đỗi bình thường và nhằm mục đích tốt là quản lý và giám sát để tránh cho vợ, chồng, con những phút giây sa ngã, sai lầm,… như: vợ hoặc chồng ngoại tình, con cái trốn học, chơi với bạn bè xấu,…
Có thể hiểu đa phần mục đích hướng đến của hành vi xem lén điện thoại của vợ, chồng, con là tốt đẹp nhằm bảo đảm cuộc sống gia đình hạnh phúc, tuy nhiên, những người vợ, người chồng, người cha, người mẹ không biết rằng họ đã và đang thực hiện hành vi trái pháp luật - xâm phạm quyền bí mật đời tư cá nhân (cụ thể là quyền bí mật thư tín, điện thoại).
Tại khoản 2 Điều 21 Hiến pháp 2013 ghi nhận: “Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác. Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác”.
Tại khoản 3 Điều 38 Bộ luật Dân sự (BLDS) 2005 cũng quy định: “Thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật. Việc kiểm soát thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được thực hiện trong trường hợp pháp luật có quy định và phải có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”.
Kế thừa tinh thần của điều luật, khoản 3 Điều 38 BLDS 2015 (sẽ có hiệu lực vào ngày 01/01/2017) cũng tiếp tục ghi nhận: “Thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật. Việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác chỉ được thực hiện trong trường hợp luật quy định”.
Như vậy, pháp luật hiện hành đã quy định rất rõ quyền bí mật của cá nhân đối với thư tín, điện thoại. Việc xem điện thoại của vợ, chồng, con chỉ được thực hiện khi được người đó cho phép hoặc được sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, mọi hành vi xem lén điện thoại của vợ, chồng, con đều là trái pháp luật, không loại trừ người vi phạm là chồng, vợ hay cha, mẹ.
Có xử lý được không?
Tuy nhiên, thực tế là việc xem lén điện thoại vợ, chồng, con diễn ra dường như là “chuyện thường ngày ở huyện” và từ trước tới nay cũng chưa có bất cứ người vợ, người chồng, người cha, người mẹ nào bị xử lý vì hành vi xem lén điện thoại của vợ, chồng, con.
Nguyên nhân của thực trạng này là bởi, thứ nhất, đa số người bị xâm phạm quyền không biết được quyền bí mật thư tín, điện thoại của bản thân mình để tự bảo vệ.
Thứ hai, vợ, chồng, con là những người thân trong cùng một gia đình nên người bị xâm phạm quyền sẽ không mong muốn làm tổn hại đến người thân của mình, không muốn người thân của mình “dính” đến pháp luật bởi sẽ ảnh hưởng đến danh dự, uy tín, tài chính của cả gia đình và chính mình.
Thứ ba, Bộ luật Hình sự (BLHS) hiện hành tuy có quy định hành vi xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại của người khác có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 125 BLHS, với mức phạt tù lên đến 02 năm.
Tuy nhiên, điều kiện đủ theo quy định của điều luật để có thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi này phải là “đã bị xử lý kỷ luật hoặc bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm”.
Trên thực tế, pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính hiện hành không có bất kỳ quy định nào quy định về xử lý kỷ luật hay xử phạt hành chính đối với hành vi “xem lén” điện thoại của người khác.
Do đó, việc truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi “xem lén” điện thoại của vợ, chồng, con là không thể thực hiện trên thực tế. Do vậy, nếu người bị xem trộm điện thoại có tố cáo thì cũng không có bất cứ chế tài nào để xử lý hành vi xâm phạm của vợ, chồng.
Do vậy, để giải quyết thực trạng bí mật, an toàn thư tín, điện thoại cá nhân bị xâm phạm phổ biến như hiện nay thì việc nâng cao sự hiểu biết của người dân về quyền bí mật và an toàn thư tín, điện thoại của cá nhân là điều cần thiết, để mỗi cá nhân có thể tự bảo vệ quyền của mình và tôn trọng quyền của người khác, trong đó có việc tôn trọng quyền bí mật thư tín, điện thoại của vợ, chồng, con.
Ngoài ra, việc quy định chế tài xử lý phù hợp và khả thi cũng hết sức quan trọng nhằm giáo dục và răn đe kịp thời những người vợ, người chồng, người cha, người mẹ đã và đang thực hiện hành vi xâm phạm đến quyền bí mật và an toàn thư tín, điện thoại của vợ, chồng, con.
Mong rằng, các cơ quan có thẩm quyền sẽ nghiên cứu và sớm ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định các chế tài cụ thể đối với người thực hiện hành vi “xem lén” điện thoại của người khác.