Tin nên đọc
Nghi án chồng vứt thi thể vợ vào thùng phuy đựng nước: Nghi phạm bất ngờ kêu oan, tòa trả hồ sơ điều tra bổ sung
Vụ “hỗn chiến” ở Quảng Bình: Bị cáo kêu oan và những tình tiết “bất thường” cần làm rõ?
40 năm "kêu trời không thấu", người đàn ông cậy nhờ con cái kêu oan trước phút lâm chung
Đắk Lăk: Ông Nguyễn Lâm Sáu được minh oan sau 33 năm kêu oan
Liệt dương vẫn bị tố giao cấu với trẻ em?
Hồ sơ truy tố cho thấy, năm 2008, ông Nguyễn Văn Đ. (SN 1947, quốc tịch Pháp, trú tại TP Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng) từ Pháp về Việt Nam lập trang trại sinh vật cảnh tại TP Bảo Lộc.
Ông Đ. tiến hành tuyển dụng lao động, trong đó có bà Vũ Ngọc L. (là mẹ của cháu Tống Vũ Khánh H.) vào làm việc và ở luôn trong trang trại.
Tại phiên tòa sơ thẩm lần thứ 2, VKS thừa nhận hồ sơ có nhiều thiếu sót nên xin rút hồ sơ truy tố. |
Khoảng năm 2011, cháu H. chuyển vào trong trang trại của ông Đ. ở với mẹ. Đến đầu năm 2013, cháu H. thường xuyên đến văn phòng của Đ. ngủ lại.
Vào một ngày tháng 9/2013, tại văn phòng của mình, ông Đ. đã quan hệ tình dục với cháu H. dẫn đến mang thai. Sau đó cháu H. không sống ở trang trại ông Đ. mà chuyển xuống TP.Hồ Chí Minh sống với người chị cùng cha khác mẹ là chị Tống Ngọc Mai U.
Sau đó, chị U. khai trước tòa rằng thấy H. có biểu hiện lạ nên dẫn đi khám thai. Do cháu H. khai cái thai là của ông Đ. nên chị U. dẫn em qua lại TP.Bảo Lộc (Lâm Đồng) và tố cáo với công an. Sau khi tố cáo, cháu H. được chị U. và cha ruột đưa đi phá thai.
Tuy nhiên, trong các biên bản thu mẫu thai của cháu H. để đưa đi giám định không có chữ ký của cha cháu H. mà chỉ có chị U. và công an.
Kết quả giám định ADN của Phân viện Khoa học hình sự - Bộ Công an phía Nam thể hiện ông Đ. chính là cha đẻ của cái thai trong người cháu H. Không đồng ý với kết quả giám định này, ông Đ. yêu cầu giám định lại tại Viện Pháp y Quân đội.
Tuy nhiên, do không còn mẫu vật, Viện Pháp y Quân đội chỉ giám định số chất lỏng còn sót lại và không thể kết luận bào thai có phải là của ông Đ. hay không? Theo đó, trong chất lỏng còn sót lại có ADN của ít nhất 2 người nhưng không nêu rõ là của những người nào.
Ngay từ khi bị tố cáo cho đến nay ông Đ. một mực kêu oan và cho rằng không thực hiện hành vi xâm hại cháu H. như cáo trạng nêu.
Tại phiên tòa ngày 18 và 19/5/2017, ông Đ. khai rằng, thời điểm trước tháng 9/2013, ông vừa mới đi mổ tim ở Pháp về được 3 tháng, có bệnh tiểu đường và bị tai nạn giao thông gãy tay. “Sức khỏe yếu làm sao quan hệ một ngày vài lần và liên tục nhiều ngày như cháu H. tố cáo.
Tôi khẳng định không giao cấu với cháu H. và bị truy tố oan”, ông Đ. khai trước tòa. Sau khi bị tố cáo 4 ngày, ông Đ. có đến Bệnh viện Việt - Pháp (TP Hồ Chí Minh) khám và được kết luận liệt dương, không còn khả năng sinh lý (ông Đ đã 70 tuổi – PV).
Tuy nhiên, hồ sơ bệnh án này không được cơ quan điều tra chấp nhận. Ông Đ. có nhiều đơn yêu cầu được đi giám định khả năng sinh lý, sinh sản nhưng không được chấp thuận.
Viện kiểm sát thừa nhận có sai sót, xin rút hồ sơ truy tố
Vụ án đã từng được đưa ra xét xử nhiều lần. Phiên sơ thẩm lần 1, TAND tỉnh Lâm Đồng tuyên phạt ông Đ. 5 năm tù. Sau đó, TAND Tối cao tuyên hủy bản án, trả hồ sơ điều tra lại. Cơ sở quan trọng nhất mà TAND Tối cao căn cứ hủy án là do quá trình thu, giao nhận mẫu vật (bào thai) chưa đúng trình tự, có nhiều vi phạm.
Ông Đ. yêu cầu được giám định khả năng tình dục, sinh sản của mình nhưng không được chấp nhận. Phiên sơ thẩm lần thứ 2 vào ngày 18 - 19/5/2017. Tại tòa lần này, bà Vũ Ngọc L. (mẹ cháu H.) từ trước đến nay đều kêu oan cho ông Đ. phân trần: “Tôi biết ông Đ. không còn khả năng sinh lý, bị liệt dương.
Tôi vào làm cho ông Đ. từ năm 2008 và ở lại luôn trong trang trại. Tôi làm rất nhiều công việc trong trang trại, kể cả chăm sóc ông Đ. lúc ốm đau. Lúc ông Đ. bị tai nạn giao thông, tay không cử động được, tôi tắm cho ông Đức nên mới biết việc ông ấy bị liệt dương là thật”.
Ngoài ra, bà L. còn cho rằng, vào thời điểm năm 2011 đến 2013, cháu Hằng có mối quan hệ với thanh niên khác tên là Trần Ngọc L. (ngụ huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng), một người tên Tú và một số thanh niên khác mà bà không biết tên.
Bà L. nói mình nhìn thấy cháu H. có quan hệ tình dục với L. và từng bỏ nhà đi với L. Vấn đề này, cháu H. cũng thừa nhận là có. Tuy nhiên, cháu H. nói chỉ mới chuẩn bị quan hệ tình dục với L. tại văn phòng của ông Đ.
Sau đó, ông Đ. bắt gặp nên cả hai chấm dứt. Tại tòa, ông Đ. còn khẳng định chị U. từng gặp riêng ông và đòi ông chi ra 200 triệu thì sẽ không đi tố cáo.
Ông Đ. không chấp nhận và yêu cầu giữ lại cái thai. Sau này sinh ra đi giám định ADN của ai thì người ấy chịu trách nhiệm. Tuy nhiên không hiểu tại sao, cháu H. lại phá bỏ. Các luật sư bào chữa cho ông Đ. đưa ra hàng loạt vấn đề sai phạm nghiêm trọng trong hồ sơ vụ án, đồng thời khẳng định hồ sơ không đủ chứng cứ kết tội ông Đ.
Cụ thể: Thứ nhất, về thời gian chị U. trình báo với cơ quan điều tra bất nhất. Trong bút lục ghi ngày 13/11/2013 chị U. đến Công an TP.Bảo Lộc trình báo tội phạm. Nhưng biên bản khám nhà của ông Đ. tìm chứng cứ phạm tội giao cấu lại ghi vào ngày 12/11/2012.
“Tức là cơ quan điều tra khám nhà ông Đ. để điều tra tội phạm trước khi có người trình báo. Vậy Công an TP.Bảo Lộc có phép thần thông, suy đoán được tương lai (?)”, luật sư nói.
Việc thu giữ mẫu không đúng quy định của pháp luật hiện hành, không có biên bản giao mẫu, bảo quản, lưu trữ. Trong biên bản thu mẫu có sự tẩy xóa ở phần tên người được thu giữ.
Theo đó, trong biên bản thu mẫu ghi “Tống Vũ Thanh H.” nhưng sau đó lại được tẩy xóa và sửa chữ “Thanh” thành chữ “Khánh”.
Việc tẩy xóa này không có chữ ký nháy bên dưới, không lập biên bản. Luật sư Huỳnh Phước Hiệp (Đoàn Luật sư TP.Hồ Chí Minh) cho biết: “Hồ sơ vụ án trải qua giai đoạn sơ thẩm và phúc thẩm lần 1 nhưng không ai phát hiện ra việc tẩy xóa này.
Tẩy xóa không có biên bản. Vì vậy, không rõ thời điểm bị tẩy xóa là ngay sau khi lập biên bản hay sau khi hồ sơ hoàn thành hay trong thời gian tố tụng. Việc tự ý tẩy xóa của điều tra viên có dấu hiệu phạm vào tội “Làm sai lệch hồ sơ vụ án” theo Điều 300 Bộ luật Hình sự năm 1999.
Biên bản thu mẫu này không có giá trị pháp lý nên dẫn đến mẫu thai nhi không biết của cháu H. hay của ai”. Về người giám hộ hoặc đại diện hợp pháp, từ lúc nhận được trình báo, điều tra đến nay, bà L. - mẹ đẻ cháu H. chưa một lần được mời làm việc.
“Việc cháu H. không chấp nhận bà L. là người giám hộ là sau này, tới lúc ra tòa mới nói. Còn lúc điều tra, ít nhất, cơ quan điều tra phải mời bà L. đến, nếu cháu H. không chấp nhận thì lập biên bản và từ đó mới có cơ sở để người khác làm giám hộ cho cháu”.
“Theo luật, chị U. không phải người giám hộ, không có quyền quyết định nhiều vấn đề vào thời điểm đó. Còn cha cháu H. là người bệnh tật thường xuyên, không thể là giám hộ được”, luật sư bào chữa cho bị cáo phân tích.
Thời điểm đưa cháu H. đi phá thai và lấy mẫu, chị U. khai: không có mặt của cha cháu H. nhưng trong văn bản trả lời của Bệnh viện Từ Dũ thì cha cháu H. mới là người đưa cháu H. đi phá thai chứ không có chị U.
Tuy nhiên, không hiểu tại sao trong các biên bản đều không có cha cháu H. ký tên mà lại có chữ ký, tên của chị U.?
Trong quá trình xét nghiệm đã tiến hành thu giữ mẫu tóc của ông Đ. 3 lần nhưng lại không có bác sĩ chuyên môn và chỉ sử dụng 1 mẫu tóc, còn 2 mẫu kia ở đâu, đã làm gì thì trong hồ sơ cũng chưa thấy nói đến.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại tòa đã thừa nhận cơ quan điều tắc trách, chủ quan trong quá trình lập hồ sơ vụ án vì thế đã yêu cầu HĐXX cho rút hồ sơ để làm rõ nhiều vấn đề, dù trong phần luận tội, đại diện VKS đề nghị mức án 3 năm tù treo cho ông Đ.
Trước những diễn biến đó, HĐXX đã chấp nhận yêu cầu rút hồ sơ của đại diện VKS và yêu cầu được đi giám định về khả năng sinh lý, sinh sản của ông Đ.
viện kiểm sát thừa nhận có sai sót, xin rút hồ sơ truy tố Vụ án đã từng được đưa ra xét xử nhiều lần. Phiên sơ thẩm lần 1, TAND tỉnh Lâm Đồng tuyên phạt ông Đ. 5 năm tù. Sau đó, TAND Tối cao tuyên hủy bản án, trả hồ sơ điều tra lại. Cơ sở quan trọng nhất mà TAND Tối cao căn cứ hủy án là do quá trình thu, giao nhận mẫu vật (bào thai) chưa đúng trình tự, có nhiều vi phạm. Ông Đ. yêu cầu được giám định khả năng tình dục, sinh sản của mình nhưng không được chấp nhận. Phiên sơ thẩm lần thứ 2 vào ngày 18- 19/5/2017. Tại tòa lần này, bà Vũ Ngọc L. (mẹ cháu H.) từ trước đến nay đều kêu oan cho ông Đ. Phân trần: “Tôi biết ông Đ. không còn khả năng sinh lý, bị liệt dương. Tôi vào làm cho ông Đ. từ năm 2008 và ở lại luôn trong trang trại. Tôi làm rất nhiều công việc trong trang trại, kể cả chăm sóc ông Đ. lúc ốm đau. Lúc ông Đ. bị tai nạn giao thông, tay không cử động được, tôi tắm cho ông Đức nên mới biết việc ông ấy bị liệt dương là thật”. Ngoài ra, bà L. còn cho rằng, vào thời điểm năm 2011 đến 2013, cháu Hằng có mối quan hệ với thanh niên khác tên là Trần Ngọc L. (ngụ huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng), một người tên Tú và một số thanh niên khác mà bà không biết tên. Bà L. nói mình nhìn thấy cháu H. có quan hệ tình dục với L. và từng bỏ nhà đi với L. Vấn đề này, cháu H. cũng thừa nhận là có. Tuy nhiên, cháu H. nói chỉ mới chuẩn bị quan hệ tình dục với L. tại văn phòng của ông Đ. Sau đó, ông Đ. bắt gặp nên cả hai chấm dứt. Tại tòa, ông Đ. còn khẳng định chị U. từng gặp riêng ông và đòi ông chi ra 200 triệu thì sẽ không đi tố cáo. Ông Đ. không chấp nhận và yêu cầu giữ lại cái thai. Sau này sinh ra đi giám định ADN của ai thì người ấy chịu trách nhiệm. Tuy nhiên không hiểu tại sao, cháu H. lại phá bỏ. Các luật sư bào chữa cho ông Đ. đưa ra hàng loạt vấn đề sai phạm nghiêm trọng trong hồ sơ vụ án, đồng thời khẳng định hồ sơ không đủ chứng cứ kết tội ông Đ. Cụ thể: Thứ nhất, về thời gian chị U. trình báo với cơ quan điều tra bất nhất. Trong bút lục ghi ngày 13/11/2013 chị U. đến Công an TP.Bảo Lộc trình báo tội phạm. Nhưng biên bản khám nhà của ông Đ. tìm chứng cứ phạm tội giao cấu lại ghi vào ngày 12/11/2012. “Tức là cơ quan điều tra khám nhà ông Đ. để điều tra tội phạm trước khi có người trình báo. Vậy Công an TP.Bảo Lộc có phép thần thông, suy đoán được tương lai (?)”, luật sư nói. Việc thu giữ mẫu không đúng quy định của pháp luật hiện hành, không có biên bản giao mẫu, bảo quản, lưu trữ. Trong biên bản thu mẫu có sự tẩy xóa ở phần tên người được thu giữ. Theo đó, trong biên bản thu mẫu ghi “Tống Vũ Thanh H.” nhưng sau đó lại được tẩy xóa và sửa chữ “Thanh” thành chữ “Khánh”. Việc tẩy xóa này không có chữ ký nháy bên dưới, không lập biên bản. Luật sư Huỳnh Phước Hiệp (Đoàn Luật sư TP.Hồ Chí Minh) cho biết: “Hồ sơ vụ án trải qua giai đoạn sơ thẩm và phúc thẩm lần 1 nhưng không ai phát hiện ra việc tẩy xóa này. Tẩy xóa không có biên bản. Vì vậy, không rõ thời điểm bị tẩy xóa là ngay sau khi lập biên bản hay sau khi hồ sơ hoàn thành hay trong thời gian tố tụng. Việc tự ý tẩy xóa của điều tra viên có dấu hiệu phạm vào tội “Làm sai lệch hồ sơ vụ án” theo Điều 300 Bộ luật Hình sự năm 1999. Biên bản thu mẫu này không có giá trị pháp lý nên dẫn đến mẫu thai nhi không biết của cháu H. hay của ai”. Về người giám hộ hoặc đại diện hợp pháp, từ lúc nhận được trình báo, điều tra đến nay, bà L. - mẹ đẻ cháu H. chưa một lần được mời làm việc. “Việc cháu H. không chấp nhận bà L. là người giám hộ là sau này, tới lúc ra tòa mới nói. Còn lúc điều tra, ít nhất, cơ quan điều tra phải mời bà L. đến, nếu cháu H. không chấp nhận thì lập biên bản và từ đó mới có cơ sở để người khác làm giám hộ cho cháu”. “Theo luật, chị U. không phải người giám hộ, không có quyền quyết định nhiều vấn đề vào thời điểm đó. Còn cha cháu H. là người bệnh tật thường xuyên, không thể là giám hộ được”, luật sư bào chữa cho bị cáo phân tích. Thời điểm đưa cháu H. đi phá thai và lấy mẫu, chị U. khai: không có mặt của cha cháu H. nhưng trong văn bản trả lời của Bệnh viện Từ Dũ thì cha cháu H. mới là người đưa cháu H. đi phá thai chứ không có chị U. Tuy nhiên, không hiểu tại sao trong các biên bản đều không có cha cháu H. ký tên mà lại có chữ ký, tên của chị U.? Trong quá trình xét nghiệm đã tiến hành thu giữ mẫu tóc của ông Đ. 3 lần nhưng lại không có bác sĩ chuyên môn và chỉ sử dụng 1 mẫu tóc, còn 2 mẫu kia ở đâu, đã làm gì thì trong hồ sơ cũng chưa thấy nói đến. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại tòa đã thừa nhận cơ quan điều tắc trách, chủ quan trong quá trình lập hồ sơ vụ án vì thế đã yêu cầu HĐXX cho rút hồ sơ để làm rõ nhiều vấn đề, dù trong phần luận tội, đại diện VKS đề nghị mức án 3 năm tù treo cho ông Đ. Trước những diễn biến đó, HĐXX đã chấp nhận yêu cầu rút hồ sơ của đại diện VKS và yêu cầu được đi giám định về khả năng sinh lý, sinh sản của ông Đ.