Mới đây, ngày 1/2/2019 Thanh tra tỉnh Quảng Ngãi ban hành văn bản số 80/TB-TTT Thông báo kết luận thanh tra trách nhiệm thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng tại Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN và PTNN) và các đơn vị trực thuộc Sở.
Trong việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng, bên cạnh những kết quả đạt được, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Ngãi và các đơn vị trực thuộc sở còn một số sai sót và hạn chế.
Sở NN và PTNN tỉnh Quảng Ngãi.(Nguồn: quangngai.gov.vn). |
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Ngãi có địa chỉ tại 182 Hùng Vương, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi. Giám đốc Sở đương nhiệm là ông Dương Văn Tô. |
Báo cáo công tác phòng, chống tham nhũng năm 2017, năm 2018 của Sở chưa lồng ghép báo cáo kết quả thực hiện các kế hoạch, chương trình của tỉnh liên quan đến công tác phòng, chống tham nhũng; một số đơn vị trực thuộc Sở chưa thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo, nội dung báo cáo chưa có số liệu về kết quả thực hiện.
Các nội dung quản lý rừng, phát triển rừng, sử dụng rừng, bảo vệ rừng, bảo tồn và phát triển nguồn lợi thủy sản, dịch vụ môi trường rừng đang có biểu hiện yếu kém, vi phạm nhưng chưa được đưa vào nội dung, chương trình kế hoạch thanh tra hàng năm.
Nội dung thanh tra việc chấp hành pháp luật về phòng, chống tham nhũng do đơn vị thực hiện còn ít, chưa đầy đủ theo quy định tại Thông tư 02/2012/TT-TTCP ngày 13 tháng 7 năm 2012 của Thanh tra Chính phủ, Sở chưa thực hiện kiểm tra việc thực hiện kế hoạch phòng, chống tham nhũng của các đơn vị trực thuộc.
Có 04/13 đơn vị chưa công khai dự toán kinh phí được giao, quyết toán thu, chi nguồn Ngân sách nhà nước năm 2016-2018. 04/13 đơn vị công khai dự toán, quyết toán chậm thời gian theo quy định; 01 đơn vị niêm yết công khai dự toán, quyết toán chưa đảm bảo thời gian quy định; 12/13 đơn vị chưa công khai tình hình quản lý, sử dụng tài sản nhà nước và chưa đảm bảo công khai tình hình quản lý, sử dụng tài sản nhà nước theo quy định tại Điều 5, Điều 6, Điều 7, Thông tư 89/2010/TT-BTC.
Chưa tổ chức thực hiện xong 08 kết luận thanh tra. Thực hiện nhiệm vụ thẩm định trước khi cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện buôn bán thuốc bảo vệ thực vật cho 05 cơ sở chưa đúng quy định. Công nhận đạt chuẩn nông thôn mới cho xã nhưng hồ sơ không có văn bản trả lời của UBND tỉnh cho UBND huyện và UBND xã về kết quả thẩm định mức độ đạt từng tiêu chí nông thôn mới, không có báo cáo tổng hợp ý kiến của các cơ quan, tổ chức và nhân dân trên địa bàn huyện tham gia vào kết quả thẩm tra mức độ đạt từng tiêu chí nông thôn mới, không có Báo cáo tài chính nợ đọng xây dựng cơ bản.
Cấp văn bản chấp thuận nghề lưới kéo cho 144 tàu cá khi đã có văn bản hạn chế của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; đăng kiểm 27 tàu cá không đánh dấu màu vạch sơn; không kiểm tra cơ động phụ đối với 14 trường hợp theo quy định tại Chương 2 Tiêu chuẩn quốc gia TCQG 7111:2002 và 6718:2000 về quy phạm phân cấp và đóng tàu cá biển; lập biên bản nghiệm thu từng phần, biên bản kiểm tra kỹ thuật không đúng trình tự thời gian, 07 Biên bản nghiệm thu, người ký trong Biên bản không đúng thành phần; cấp Giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật tàu cá nhưng không thu phí đăng kiểm đối với máy phụ đối với 03 trường hợp.
Thanh tra 14 cơ sở sản xuất kinh doanh ngoài Danh sách đối tượng thanh tra được duyệt; Biên bản thanh tra chuyên ngành không đúng mẫu, không có nội dung công bố quyết định thanh tra và kết thúc thời gian thanh tra; không có Kế hoạch tiến hành thanh tra; Không ghi Nhật ký đoàn thanh tra; không cử người giám sát hoạt động đoàn thanh tra; Báo cáo kết quả thanh tra chậm thời gian; không tổ chức thực hiện theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận thanh tra. Biên bản vi phạm hành chính người vi phạm không ký biên bản và không có xác nhận của người được chứng kiến; không thực hiện công khai kết luận thanh tra; Vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm, chất lượng sản phẩm hành hóa, bị xử phạt vi phạm hành chính nhưng khồn còn công bố công khai trên phương tiện thông tin đại chúng.
Thực hiện lấy số lượng mẫu hàng hóa để kiểm tra, phân tích làm cơ sở kết luận thanh tra đột xuất chưa đảm bảo theo kế hoạch tiến hành thanh tra được duyệt.Phát hiện hành vi vi phạm theo quy định phải xử lý vi phạm hành chính nhưng không được xử lý; một số trường hợp xử phạt vi phạm hành chính nhưng áp mức phạt tiền không đúng quy định.
Có 21 trường hợp bổ nhiệm, bổ nhiệm lại chưa đảm bảo về hồ sơ, tiêu chuẩn; Chi cục trưởng Chi cục Phát triển nông thôn quyết định chuyển 01 trường hợp từ viên chức thành công chức không đúng thẩm quyền.
Còn 35 công chức, viên chức là kế toán Văn phòng Sở, kế toán đơn vị trực thuộc Sở, thanh tra sở và chi cục, kiểm lâm viên Chi cục Kiểm lâm tỉnh và Hạt kiểm lâm huyện có thời gian giữ vị trí trên 5 năm (có trường hợp đến trên 35 năm) nhưng chưa thực hiện chuyển đổi vị trí công tác theo quy định, 08 trường hợp công chức, viên chức giữ vị trí công tác công tác thuộc diện phải chuyển đổi trên 10 năm mới thực hiện chuyển đổi; 05 trường hợp công chức viên chức giữ vị trí công tác thuộc diện phải chuyển đổi dưới 5 năm nhưng Chi cục Kiểm lâm tỉnh đã thực hiện chuyển đổi.
Văn phòng Sở sử dụng 20.554.000 đồng từ nguồn cải cách tiền lương năm 2017 để chi phục vụ việc thu phí, lệ phí là không đúng nguồn, không đúng quy định.
Chi cục Chăn nuôi và thú y thu lệ phí cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh thuốc thú y 1.960.000 đồng không đúng quy định; thu phí thẩm định điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm vượt quy định số tiền 950.000 đồng; hạch toán 283.360.000 đồng tiền thu lệ phí cấp giấy chứng nhận kiểm dịch động vật vào khoản thu phí, dẫn đến xác định khoản lệ phí phải nộp Ngân sách nhà nước thấp hơn mức quy định số tiền 114.232.616 đồng; 02 trường hợp kiểm dịch viên thu phí kiểm dịch động vật số tiền 11.082.000 đồng nhưng chậm nộp về đơn vị; không hoàn thành nhiệm vụ Kiểm soát giết mổ trong phạm vi toàn tỉnh; Sở cho phép Hội và Chi cục Chăn nuôi và thú y được sử dụng chung phòng làm việc là không đúng quy định của pháp luật.
Kinh phí thực hiện cải cách tiền lương trích từ nguồn thu phí, lệ phí không sử dụng đến thời điểm 31 tháng 12 năm 2018 của Chi cục Thủy sản là 1.648.591.004 đồng (đã trừ 62.000.000 đồng sử dụng trong năm 2018) nhưng chưa nộp về ngân sách nhà nước; năm 2016, thu phí thẩm định thiết kế đối với tàu cá cải hoán, sửa chữa không nằm trong danh mục thu phí, lệ phí tại Quyết định số 31/2007/QĐ-BTC ngày 15 tháng 5 năm 2007 tổng số tiền 17.850.000 đồng; tháng 01/2017, thu thiếu phần phí an toàn kỹ thuật tàu cá và các trang thiết bị trên tàu cá đối với 205 trường hợp theo quy định tại Thông tư số 230/2016/TT-BTC ngày 11 tháng 11 năm 2016 của Bộ tài chính tổng số tiền 21.027.000 đồng.
Thu lệ phí đăng ký tàu cá, chứng nhận an toàn kỹ thuật tàu cá, cấp sổ danh bạ thuyền viên không nằm trong danh mục thu phí, lệ phí tại Thông tư số 230/2016/TT-BTC tổng số tiền 5.680.000 đồng; Chi cục Thủy sản áp dụng Quyết định số 10/2014/QĐ-UBND để xác định giá vỏ tàu, máy thủy làm cơ sở để tính phí giám sát kỹ thuật đóng mới là chưa đảm bảo căn cứ pháp lý.
Ban quản lý dự án sửa chữa và nâng cao an toàn đập tỉnh, Ban quản lý dự án Quản lý thiên tai tỉnh (WB5) và Ban Quản lý dự án phục hồi và Quản lý bền vững rừng phòng hộ tỉnh (JIKA) thu tiền bán hồ sơ yêu cầu, hồ sơ mời thầu tổng số tiền 165.600.000 đồng nhưng không kê khai nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doan nghiệp.
Ban quản lý dự án Quản lý thiên tai tại tỉnh Quảng Ngãi; Ban quản lý phục hồi và Quản lý bền vững rừng phòng hộ tỉnh Quảng Ngãi; Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh và Văn phòng Sở làm đại diện Chủ đầu tư thực hiện việc quản lý đầu tư xây dựng công trình, dự án nhưng trong quá trình kiểm tra, giám sát, nghiệm thu thanh toán khối lượng hoàn thành thiếu kiểm tra, xác định không đúng khối lượng thực tế hoàn công dẫn đến xác định giá trị thanh quyết toán cho đơn vị thi công, tư vấn thiết kế và tư vấn giám sát cao hơn giá trị thực tế để thực hiện được thanh toán theo quy định với tổng số tiền 180.878.000 đồng.
Có 8/30 đơn vị công khai bằng hình thức niêm yết nhưng không lập biên bản theo quy định tại Khoản 3 Điều 9 Thông tư 08/2013/ TT-TTCP. Có 304/794 trường hợp người kê khai đã kê khai cả con hết tuổi thanh niên; một số trường hợp không kê khai nhà, đất ở đang sử dụng, không kê khai tổng thu nhập trong năm, không giải trình sự biến động tổng tài sản thu nhập, kê khai không đúng mẫu.
Nguyên nhân được chỉ ra là do sự quan tâm của người đứng đầu đơn vị chưa đúng mức trong triển khai, chỉ đạo thực hiện quy định pháp luật về phồng chống tham nhũng và các quy định của pháp luật có liên quan. Các bộ phận tham mưu thực hiện công tác phòng chống tham nhũng còn chủ quan, chưa nghiên cứu kỹ quy định quy định của pháp luật dẫn đến công tác tham mưu thục hiện có nội dung, thời điểm chưa đạt yêu cầu, còn thiếu sót, có trường hợp chưa đúng quy định. Ý thức, trách nhiệm của công chức, viên chức, người lao động trong việc chấp hành pháp luật chưa cao. Năng lực, nghiệp vụ chuyên môn của một số bộ phận công chức, viên chức chưa đáp ứng yêu cầu, áp dụng pháp luật thiếu chuẩn xác.
Các chủ thể sản xuất kinh doanh thuộc lĩnh vực quản lý của sở nhỏ lẻ, phân tán, nhiều rủi ro, trình độ năng lực hạn chế, tiếp cận chính sách pháp luật còn nhiều bất cập, chính sách thiếu ổn định, chưa đồng bộ nên việc kiểm tra, thanh tra, xử lý đối tượng vi phạm có khó khăn, vướng mắc.
Pháp luật Plus sẽ tiếp tục thông tin tới bạn đọc.
Tags: