LS Cường cho biết: Chứng cứ trong hồ sơ vụ án đều “có vấn đề”, chưa đủ căn cứ chứng minh hành vi "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" của bị cáo.
Tin nên đọc
Phú Thọ: Uẩn khúc vụ án kéo dài 7 năm, phiên tòa sơ thẩm "bỏ quên" nhiều chứng cứ, đôi vợ chồng kêu oan
Những dấu hiệu oan sai trong "kỳ án" xử đôi vợ chồng tội lừa đảo ở Phú Thọ
Những dấu hiệu nghiện Facebook
Những dấu hiệu cảnh báo ung thư cổ tử cung
Liên quan đến vụ án "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" mà TAND tỉnh Phú Thọ đã tuyên án vào ngày 24/1/2018 vừa qua.
Cụ thể, TAND tỉnh Phú Thọ đã tuyên phạt bị cáo Trần Thị Minh Huệ 14 năm tù, và Vũ Đại Lâm 7 năm tù cùng về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản".
Luật sư Cường chỉ rõ những điểm bất thường trong "kỳ án" xử đôi vợ chồng tội lừa đảo ở Phú Thọ.
Trao đổi với PV Phapluatplus.vn, Luật sư Đặng Văn Cường - Trưởng Văn phòng luật sư Chính Pháp, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội là người bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bị cáo cho biết: Trong vụ án hình sự, chứng cứ có vai trò đặc biệt quan trọng, là cơ sở duy nhất, là phương tiện, căn cứ để chứng minh, làm rõ có hay không có hành vi phạm tội?
Nếu có thì ai là tội phạm? Thế nhưng, trong vụ án này, các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đều “có vấn đề”, chưa có đủ căn cứ để chứng minh hành vi của chị Trần Thị Minh Huệ cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Theo LS Cường: Theo cơ quan tố tụng, chị Huệ dùng thủ đoạn gian dối lập khống hợp đồng vay tiền số 02/2009/ĐH-KE ngày 07/01/2009 để chiếm đoạt số tiền 5.617.667.881đ của công ty Kee Eun và lập khống Hợp đồng lao động số 017/08/KE-HĐLĐ ngày 01/09/2005 để chiếm đoạt số tiền 1.615.321.808đ của công ty Kee Eun.
Huệ chuyển tiền từ tài khoản công ty Kee Eun về tài khoản công ty Đại Hưng thông qua 06 ủy nhiệm chi, về tài khoản của Huệ thông qua 03 ủy nhiệm chi.
|
Bản án của TAND tỉnh Phú Thọ tuyên hai vợ chồng chị Huệ 21 năm tù, đôi vợ chồng kháng cáo và kêu oan lên TANDTC. |
Tuy nhiên các chứng cứ trong hồ sơ vụ án chưa đủ cơ sở xác định các hợp đồng này được lập khống và việc chuyển tiền là chiếm đoạt tài sản.
Cụ thể, luật sư Cường phân tích: Lời khai của ông Kim Han Yong và chị Trần Thị Minh Huệ và anh Vũ Đại Lâm có mâu thuẫn nhau về việc Hợp đồng vay tiền và Hợp đồng lao động là có thật hay không.
Tại tất cả các bản khai, chị Huệ đều khẳng định các hợp đồng này là có thật và giữa chị và ông Kim có thỏa thuận về việc vay tiền và ký hợp đồng lao động 3000usd/tháng.
Trong hồ sơ có 11 biên bản hỏi cung và 01 bản tự khai của bị can, anh Lâm khai không có số tiền 05 tỷ đồng cho ông KHY vay.
Tuy nhiên theo lời khai của anh Lâm tại phiên tòa thì những lời khai đó là do anh bị ép cung, dùng nhục hình. Vì vậy có căn cứ cho rằng việc khai báo này là không đúng.
Anh Lâm và chị Huệ thống nhất về lời khai khẳng định việc vay mượn là có thật, mâu thuẫn với lời khai của ông Kim Han Yong.
Ông Kim Han Yong khai không có hợp đồng vay tiền và hợp đồng lao động, là do Huệ tự lập dựa trên các giấy trắng ông Kim ký khống lên và chưa có nội dung.
Ông Kim cho rằng ông đã đưa bản ký khống cho nhân viên kế toán thế nhưng ông Kim không chứng minh được ông đã đưa bao nhiêu tờ và có căn cứ gì chứng minh ông Kim đã đưa cho chị Huệ các bản giấy ký khống?
Việc đưa bản giấy ký khống liên quan đến hoạt động công ty, cần phải được quản lý chặt chẽ và ông Kim phải là người khống chế việc sử dụng các bản ký này, và việc sử dụng ra sao phải có báo cáo cụ thể, không thể chỉ bảo là có ký khống rồi nhân viên tự sử dụng thế nào cũng được mà không kiểm tra, giám sát.
Vê người làm chứng không đủ tính chất khách quan, ngoài ra người làm chứng cũng không chứng minh được số giấy tờ ký khống mà ông Kim đưa cho bộ phận kế toán cũng như chị Huệ và căn cứ đưa giấy tờ này.
Còn về 06 ủy nhiệm chi của công ty KE mà Huệ sử dụng để chuyển tiền thì ông Kim không biết về những nội dung chi này.
Ông Kim giải trình trong các lần đi công tác, ông thường ký khống và các ủy nhiệm chi khi chưa có nội dung chi, các ủy nhiệm chi này hàng năm Công ty mua mẫu tại ngân hàng để sử dụng, để nhân viên kế toán làm các thủ tục giao dịch thanh toán qua ngân hàng, do vậy Huệ đã sử dụng các ủy nhiệm chi do ông ký khống này để làm các thủ tục chuyển tiền nêu trên.
|
Kết luận giám định của Phòng giám định kỹ thuật hình sự Bộ Quốc phòng. |
Thế nhưng ông Kim không chứng minh được ông đã giao bao nhiêu ủy nhiệm chi ký khống cho chị Huệ và ủy nhiệm chi dùng chi tiền là giấy tờ cực kỳ quan trọng, nhất định phải khống chế lượng giấy ký khống phát ra, thu về và nội dung chi nếu có việc ký khống.
Như vậy chưa đủ căn cứ để cho rằng chị Huệ đã sử dụng ủy nhiệm chi ký khống và việc chuyển tiền là có thật, được thực hiện đúng thủ tục tại ngân hàng.
Do đó không chứng minh được dấu hiệu chiếm đoạt của chị Huệ.
Nói về những kết luật điều tra của cơ quan công an, luật sư Cường cho biết: Quá trình điều tra, cơ quan điều tra tiến hành xác minh những lần ông Kim về Hàn Quốc hoặc ra nước ngoài, xác định từ 2005 đến 2011 ông Kim đã 58 lần xuất cảnh ra khỏi Việt Nam, tổng 294 ngày.
Những ngày ông Kim xuất cảnh thì các văn bản hồ sơ vẫn được phát hành, các giao dịch chuyển khoản vẫn được thực hiện bằng ủy nhiệm chi, lệnh chuyển tiền, phiếu thu cho chữ ký, nhân viên công ty xác nhận ông Kim thường xuyên ký khống vào giấy tờ để thực hiện trong giao dịch mua bán khi ông không có mặt tại Việt Nam và cho rằng có căn cứ xác định lời khai ông Kim về việc ký khống vào giấy tờ là đúng. Tuy nhiên kết luận này của cơ quan điều tra là chưa đủ cơ sở.
Khi xác minh tại Công ty Kee Eun thể hiện toàn bộ hệ thống sổ sách kế toán của công ty không theo dõi và hạch toán tiền lương phải trả cho Huệ 3000 usd/tháng theo nội dung hợp đồng số 17 thể hiện và cán bộ làm công tác quản lý hồ sơ của phòng nhân sự công ty xác nhận không có hợp đồng lao động nêu trên trong hồ sơ lưu trữ của Huệ tại công ty Kee Eun.
Nói về 04 phiếu thu tiền thể hiện việc chị Huệ nộp tiền vào công ty Kee Eun: Luật Cường nói, đây là tài liệu vô cùng quan trọng để làm rõ việc ông Kim vay tiền của anh Lâm.
Đến nay, giám định không kết luận được chữ ký của ông Kim Han Yong trên 4 phiếu thu tiền có trước hay sau khi có nội dung viết tay. Do đó, không có căn cứ cho rằng chị Huệ không nộp tiền vào công ty Kee Eun.
Luật sư Cường còn chỉ rõ: Chính vì không kết luận được chữ ký trên các phiếu thu được ký trước hay sau do đó cơ quan tố tụng đã trưng cầu giám định tuổi mực. Tuy nhiên kết luận giám định đối với tuổi mực lại không khách quan.
Thứ nhất, trên 4 phiếu thu tiền, trên Hợp đồng lao động có chữ ký của chị Trần Thị Minh Huệ và chữ ký của ông Kim Han Yong.
Nhưng cơ quan điều tra chỉ giám định tuổi mực đối với chữ ký và chữ viết của chị Huệ mà không giám định tuổi mực đối với chữ ký của ông Kim Han Yong là không công bằng, không khách quan.
Thứ hai, phương pháp giám định là xác định tính chất hóa lý của mực và phương pháp xác định độ hòa tan của mực vào dung môi và sự bám dính vào giấy để xem xử sự của các mẫu giám định và so sánh có giống nhau không.
Kết luận giám định xác định mực trên tài liệu cần giám định và mực trên mẫu so sánh không cùng một loại.
Tuy nhiên kết luận giám định lại dựa vào thời gian của mực trên mẫu so sánh để xác định khoảng thời gian của mực trên tài liệu cần giám định là không phù hợp, vì hai loại mực khác nhau sẽ có độ hòa tan vào dung môi và sự bám dính vào giấy khác nhau, việc có xử sự giống nhau cũng chưa thể khẳng định là được ký và viết vào cùng thời gian.
Việc dựa vào tuổi mực của mẫu so sánh để kết luận tuổi mực của tài liệu cần giám định trong khi hai loại mực là khác nhau là chưa khách quan.
Như vậy, cho đến nay không có căn cứ nào xác định chữ ký của ông Kim trên 4 phiếu thu có trước hay sau nội dung “vay tiền của Vũ Đại Lâm”, và không có căn cứ nào xác định chữ ký của ông Kim trên 4 phiếu thu có trước hay sau chữ ký của chị Trần Thị Minh Huệ.
Theo kết luận giám định thì dấu đóng trên hợp đồng lao động năm 2005 là con dấu của công ty Kee Eun được cấp năm 2006.
Tuy nhiên theo chị Huệ, ở công ty Kee Eun, hợp đồng lao động năm 2005 nhưng được đóng dấu của năm 2006 là điều bình thường.
Công ty thường dồn nhiều hợp đồng lao động và một số văn bản vào một đợt rồi đóng dấu. Đó là lý do vì sao dấu đóng trên HĐ lao động 017 là dấu được cấp sau thời điểm ký hợp đồng.
Vì vậy, việc dựa vào giám định dấu được đóng sau thời điểm ký hợp đồng rồi kết luận chị Huệ tự lập Hợp đồng lao động là chưa đủ cơ sở.
Như vậy Các kết luận giám định và nội dung điều tra xác minh của cơ quan điều tra chưa đủ căn cứ để kết tội Trần Thị Minh Huệ, còn nhiều điểm chưa được làm rõ và còn nhiều mâu thuẫn, do đó chưa đủ căn cứ để chứng minh Chị Trần Thị Minh Huệ đã lừa đảo chiếm đoạt tài sản của công ty Kee Eun Hàn Quốc.
Việc truy tố chị Huệ về hành vi trên là chưa hợp lý, chưa khách quan, có dấu hiệu oan sai.