|
Người Việt Nam phạm tội ở nước ngoài có thể về nước thụ án. Hình minh họa. |
Hỏi: Hơn một năm trước, khi sang làm thuê ở vùng biên giới nước bạn, tôi bị một người bạn cùng quê cố ý gây thương tích khiến tôi bị gãy chân, dù đã trải qua nhiều lần phẫu thuật và điều trị tích cực nhưng hiện chân tôi vẫn bị cố tật.
Người gây thương tích cho tôi sau thời gian lẩn trốn, giờ thấy tình hình có vẻ yên nên ngang nhiên về quê sinh sống, thậm chí còn thách thức tôi. Xin luật sư cho biết: trường hợp này tôi có thể yêu cầu cơ quan pháp luật trong nước xử lý người gây thương tích cho mình được hay không?
Hành vi phạm tội diễn ra ở nước ngoài có thể bị tòa án trong nước xử lý? (Anh Vũ Đệ, 35 tuổi ở Bắc Giang).
Trả lời: Điều 5 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về Hiệu lực của Bộ luật Hình sự đối với những hành vi phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
1. Bộ luật Hình sự áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Quy định này cũng được áp dụng đối với hành vi phạm tội hoặc hậu quả của hành vi phạm tội xảy ra trên tàu bay, tàu biển mang quốc tịch Việt Nam hoặc tại vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam.
2. Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao hoặc lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên hoặc theo tập quán quốc tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết theo quy định của điều ước quốc tế hoặc theo tập quán quốc tế đó; trường hợp điều ước quốc tế đó không quy định hoặc không có tập quán quốc tế thì trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao.
Tại Điều 6 Bộ luật này cũng quy định về Hiệu lực của Bộ luật Hình sự đối với những hành vi phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
1. Công dân Việt Nam hoặc pháp nhân thương mại Việt Nam có hành vi phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam mà Bộ luật này quy định là tội phạm, thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại Việt Nam theo quy định của Bộ luật này. Quy định này cũng được áp dụng đối với người không quốc tịch thường trú ở Việt Nam.
2. Người nước ngoài, pháp nhân thương mại nước ngoài phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này trong trường hợp hành vi phạm tội xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam hoặc xâm hại lợi ích của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam hoặc theo quy định của điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên.
3. Đối với hành vi phạm tội hoặc hậu quả của hành vi phạm tội xảy ra trên tàu bay, tàu biển không mang quốc tịch Việt Nam đang ở tại biển cả hoặc tại giới hạn vùng trời nằm ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thì người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này trong trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên có quy định.
Như vậy, người thực hiện hành vi phạm tội trên lãnh thổ khác vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo pháp luật Việt Nam, và bị xét xử bởi một Tòa án có thẩm quyền tại Việt Nam.
Hỏi: Trong thời gian đi xuất khẩu lao động ở Hàn Quốc, người yêu em lỡ có hành vi phạm pháp và bị kết án 3 năm tù. Em xin hỏi, trường hợp người yêu em phạm tội ở nước ngoài, đang thụ án ở nhà tù nước ngoài thì có thể làm thủ tục xin chuyển giao về Việt Nam thi hành án được không?” (bạn Nga Thỏ, 24 tuổi ở Hà Tĩnh).
Trả lời: Theo Thông tư 01/2013 của liên bộ Công an, Tư pháp, Ngoại giao, VKSND Tối cao và TAND Tối cao về hướng dẫn việc tiếp nhận, chuyển giao, tiếp tục thi hành án đối với người đang chấp hành phạt tù thì công dân Việt Nam bị kết án và đang thi hành án tù ở nước ngoài có thể được xem xét chuyển về nước để tiếp tục thi hành án.
Theo Thông tư 01/2013, công dân Việt Nam phạm tội và bị kết án phạt tù chung thân hoặc tù có thời hạn tại nước ngoài có nguyện vọng được chuyển giao về Việt Nam để tiếp tục chấp hành hình phạt còn lại có thể làm đơn (hoặc thông qua người đại diện hợp pháp) trình bày nguyện vọng với cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài hoặc Bộ Công an, cơ quan đại diện Việt Nam.
Thông tư này cũng quy định, bản án đối với người được đề nghị chuyển giao về Việt Nam phải đã có hiệu lực pháp luật, không còn thủ tục tố tụng nào tại nước chuyển giao. Nước chuyển giao và người bị kết án đều đồng ý với việc chuyển giao.
Vào thời điểm tiếp nhận yêu cầu chuyển giao, thời hạn chưa chấp hành án phạt tù phải còn ít nhất 1 năm; trường hợp đặc biệt thời hạn này còn ít nhất 6 tháng. Về trình tự, thủ tục nhận yêu cầu chuyển giao, trong 10 ngày kể từ khi nhận được đơn của người đang chấp hành án phạt tù xin chuyển giao, cơ quan đại diện Việt Nam sẽ chuyển đơn, hồ sơ cho Bộ Công an.
Trong 20 ngày, Bộ Công an sẽ kiểm tra hồ sơ theo quy định của Luật tương trợ tư pháp. Bộ có thể yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền của nước chuyển giao cung cấp thông tin bổ sung. Sau 60 ngày kể từ ngày gửi văn bản yêu cầu bổ sung mà không nhận được thông tin phản hồi, Bộ sẽ gửi trả hồ sơ cho nước chuyển giao, đồng thời gửi thư cho người đang chấp hành án phạt tù có yêu cầu tiếp nhận về Việt Nam hoặc đại diện hợp pháp của người đó.
Trường hợp hồ sơ hợp lệ, Bộ Công an chuyển ngay cho TAND cấp tỉnh có thẩm quyền để xem xét, quyết định có tiếp nhận về Việt Nam hay không.
Trường hợp Bộ Công an nhận được đề nghị tiếp nhận, chuyển giao của phía nước ngoài mà giữa Việt Nam và nước đó chưa có điều ước quốc tế liên quan đến tiếp nhận, chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù, chưa có thỏa thuận hoặc tiền lệ về việc áp dụng nguyên tắc “có đi có lại”, Bộ Công an có văn bản kèm theo hồ sơ đề nghị Bộ Ngoại giao phối hợp với các Bộ Tư pháp, TAND Tối cao, VKSND Tối cao xem xét, áp dụng nguyên tắc “có đi có lại”.
Trong văn bản phải nêu rõ ý kiến của Bộ Công an về sự cần thiết áp dụng nguyên tắc này và sự phù hợp với quy định tại Luật Tương trợ tư pháp.
Như vậy, người yêu bạn có thể trực tiếp làm đơn (hoặc thông qua người đại diện hợp pháp) trình bày nguyện vọng được chuyển về Việt Nam thi hành án phạt tù còn lại với cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài hoặc Bộ Công an Việt Nam.
Các cơ quan chức năng sẽ xem xét giải quyết theo thủ tục và trong thời hạn như quy định của Thông tư 01/2013. Chúc các bạn sớm đạt được nguyện vọng
Hỏi: Anh trai tôi phạm tội lừa đảo trong một vụ án có đồng phạm. Xử sơ thẩm, do chỉ đóng vai trò thứ yếu và được tuyên mức án thấp nhất trong vụ án nên anh tôi không kháng cáo.
Đến phiên phúc thẩm, các đồng phạm khác kháng cáo xin giảm án và họ đều được giảm án, thậm chí có người vai trò tích cực nhưng được giảm xuống bằng mức án của anh tôi.
Điều này khiến anh tôi và gia đình rất hối tiếc. Xin hỏi trong trường hợp này anh tôi có thể khiếu nại để xin giảm án có được không? (bạn Ánh Tuyết, 22 tuổi ở Hòa Bình).
Trả lời: Điều 345 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định về Phạm vi xét xử phúc thẩm như sau: “Tòa án cấp phúc thẩm xem xét phần nội dung bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị. Nếu xét thấy cần thiết có thể xem xét đến phần không bị kháng cáo, kháng nghị.”
Như vậy, ngoài việc xem xét phần nội dung bản án có kháng cáo, kháng nghị, cấp phúc thẩm còn có thể xét đến phần không bị kháng cáo, kháng nghị.
Tuy nhiên, tại Điều 343 Bộ luật này về Hiệu lực của bản án không bị kháng cáo, kháng nghị quy định: “Bản án, quyết định và những phần của bản án, quyết định sơ thẩm của tòa án không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.”
Nghĩa là khi anh bạn bỏ qua thời hạn kháng cáo và phần bản án liên quan đến anh bạn không bị kháng nghị thì án đã có hiệu lực pháp luật ngay.
Vậy nên dù điều 345 quy định “cấp phúc thẩm còn có thể xét đến phần không bị kháng cáo, kháng nghị” nhưng rất khó để thực hiện vì cấp phúc thẩm có quyền xem xét lại đối với phần bản án đã có hiệu lực. Rất đáng tiếc cho anh bạn đã tự từ bỏ quyền kháng cáo để đánh mất cơ hội giảm án.
Do bản án của anh bạn đã có hiệu lực pháp luật nên anh bạn hết quyền kháng cáo giảm án, những vẫn có thể khiếu nại bản án theo thủ tục giám đốc thẩm.
Hỏi: Em trai tôi bị đánh thương tích, thủ phạm đã bị bắt giam nhưng bị cáo kêu oan. Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm mới đây, bị cáo tiếp tục kêu oan nhưng vẫn bị tòa xác định có tội và tuyên mức án 9 tháng tù cho hưởng án treo (mặc dù bị cáo đã bị tạm giam hơn 7 tháng).
Sau phiên tòa sơ thẩm bị cáo đã được thả tự do khiến gia đình tôi rất bức xúc. Xin hỏi việc tòa sơ thẩm thả bị cáo như vậy có đúng không, vì bản án sơ thẩm hiện đang bị phía bị hại kháng cáo? (Anh Vũ Đáng, 28 tuổi ở Hoài Đức, Hà Nội).
Trả lời: Điều 363 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2013 quy định về những trường hợp bản án, quyết định của tòa án được thi hành ngay như sau:
Trường hợp bị cáo đang bị tạm giam mà Tòa án cấp sơ thẩm quyết định đình chỉ vụ án, tuyên bị cáo không có tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt cho bị cáo, hình phạt không phải là hình phạt tù hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo hoặc khi thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời hạn đã tạm giam thì bản án hoặc quyết định của Tòa án được thi hành ngay, mặc dù vẫn có thể bị kháng cáo, kháng nghị. Hình phạt cảnh cáo được thi hành ngay tại phiên tòa.
Đối chiếu với điều luật trên, thấy rằng việc tòa cấp sơ thẩm tuyên trả tự do cho bị cáo là có căn cứ pháp luật.