Người chồng kiện đòi bồi thường danh dự, uy tín với lý do, vợ có thai với người khác trong khi hôn nhân vẫn chưa chấm dứt. Ngược lại, tòa cho rằng, khi nghe tin vợ có thai, anh chồng vẫn khỏe, ổn định, không thiệt hại gì nên... bác đơn kiện.
|
Hình minh họa. |
Tình huống oái ăm
TAND huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên vừa mở phiên tòa xét xử vụ ly hôn giữa bà T và ông P. Theo trình bày của bà T: Bà và ông P tự nguyện tìm hiểu, đi đến kết hôn, được UBND xã cấp giấy chứng nhận kết hôn năm 1996.
Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc cho dù hai người không có con chung. Đến năm 2015 vợ chồng xảy ra mâu thuẫn do ông P ngoại tình, không những thế còn đánh đuổi bà ra khỏi nhà. Do đó, từ tháng 3/2016, vợ chồng bà ly thân, bà về nhà mẹ ruột ở huyện Phú Hòa sinh sống. Vợ chồng ly thân đã lâu, bà không còn tình cảm với ông P, nên yêu cầu ly hôn.
Về phần mình, ông P cho rằng mâu thuẫn dẫn đến vợ chồng ly thân là do bà T ghen tuông, tự ý bỏ về nhà mẹ đẻ sống. Mặc dù cũng đồng ý ly hôn nhưng ông P yêu cầu tòa buộc bà T phải bồi thường thiệt hại danh dự, nhân phẩm, uy tín cho ông và gia đình ông số tiền 30 triệu đồng. Lý do: Trong thời gian còn là vợ ông, bà T lại đi quan hệ, dẫn đến có thai với người đàn ông khác.
Tại phiên xử, HĐXX TAND huyện Phú Hòa công nhận việc thuận tình ly hôn của bà T và ông P. Con và tài sản các đương sự không yêu cầu nên tòa không xét. Về phản tố của ông P, HĐXX cho rằng tại phiên tòa, bà T thừa nhận có thai năm tháng và thai nhi không phải là con ông P. Bà T không đồng ý bồi thường theo yêu cầu của ông P vì bà với ông dù không có con chung nhưng bà vẫn chấp nhận chung sống với ông suốt 19 năm.
Trong khi đó ông P đã đi ngoại tình mà còn đánh đuổi bà, xúc phạm bà. HĐXX cho rằng, khi nghe tin bà T có bầu, ông P vẫn ở TP.HCM đi làm bình thường, sức khỏe của ông vẫn ổn định và không bị thiệt hại gì xảy ra. Từ đó, HĐXX bác toàn bộ yêu cầu phản tố của ông P về việc yêu cầu bà T. bồi thường thiệt hại danh dự, nhân phẩm, uy tín cho ông.
Chưa có chế định về ly thân
Ly thân là một hành động khá phổ biến trong xã hội khi vợ/chồng mâu thuẫn, hiểu đơn giản là sự sống riêng giữa vợ và chồng, như là không ăn chung, ở chung, không sinh hoạt vợ chồng. Vậy, pháp luật điều chỉnh hoạt động này như thế nào?
Hiện nay tại Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 và các văn bản hướng dẫn thì chưa có quy định nào về vấn đề ly thân. Vì luật không quy định nên không có một định nghĩa chính xác về ly thân, cũng không có cơ quan, tổ chức nào đứng ra giải quyết cho ly thân theo hướng ra quyết định hoặc bản án công nhận cho ly thân.
Trong quy định về căn cứ cho ly hôn cũng không có quy định là vợ chồng phải sống ly thân một thời gian rồi mới được ly hôn. Như vậy dù hai vợ chồng ông P và bà T đã ly thân nhưng theo quy định hiện hành thì quan hệ hôn nhân giữa hai người vẫn tồn tại.
Do đó, thời gian ly thân vẫn được coi là trong thời kỳ hôn nhân. Dưới góc độ pháp lý thì hành vi của bà T vẫn được xem là có dấu hiệu vi phạm “chế độ hôn nhân 1 vợ 1 chồng” được quy định tại Điều 147 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
Tuy nhiên để xử lý theo quy định này đòi hỏi hành vi ngoại tình phải “gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm”.
Đối với trường hợp người có hành vi ngoại tình nhưng hành vi này chưa đủ yếu tố cấu thành “Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng” thì có thể bị xử phạt hành chính theo quy định tại khoản 1 Điều 48 Nghị định 110/2013/NĐ-CP ngày 24/09/2013.
Cụ thể: “1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: a) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ; b) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác; c) Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ...”