Sau khi có quyết định tuyên bố mất tích đã có hiệu lực pháp luật, các đồng thừa kế còn lại sẽ tiến hành thỏa thuận chia thừa kế theo di chúc
|
Hình minh họa. |
Hỏi: Trước khi mất, cha tôi có lập di chúc để lại toàn bộ ngôi nhà mà hiện mẹ con tôi đang ở cho người con trai (anh này là con của cha với người vợ trước, hiện đã lấy vợ, có chỗ ở riêng); cha cũng di chúc cho mẹ con tôi mỗi người được hưởng một sổ tiết kiệm.
Cha mới mất được 7 tuần, người anh đã yêu cầu mẹ con tôi bàn giao ngôi nhà cho anh theo di chúc. Mẹ tôi muốn ở lại để hương khói thờ phụng cha cho đến hết giỗ đầu, cũng là có thời gian để mẹ con tôi thu xếp, tìm chỗ ở mới nhưng anh không đồng ý.
Xin hỏi pháp luật có cho phép chia thừa kế trong thời điểm cha tôi vừa mới mất hay không? Trường hợp mẹ tôi yêu cầu tạm hoãn việc chia thừa kế liệu có được chấp nhận? (Bạn Thường Xuân, 21 tuổi ở Hải Dương).
Trả lời: Theo Điều 611 Bộ luật Dân sự thì thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế. Như vậy, việc anh bạn yêu cầu chia thừa kế theo di chúc ngay sau khi cha bạn mất là không trái pháp luật.
Tuy nhiên, do hiện tại mẹ con bạn đang sinh sống trong ngôi nhà là đối tượng tài sản mà người anh của bạn được hưởng theo di chúc và hiện tại mẹ con bạn chưa tìm được chỗ ở mới, việc chia di sản thừa kế sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của mẹ con bạn nên theo quy định tại Điều 661 Bộ luật Dân sự 2015, mẹ của bạn có quyền yêu cầu tạm hoãn việc chia thừa kế.
Cụ thể, Điều 661 quy định như sau: “Trường hợp yêu cầu chia di sản thừa kế mà việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu tòa án xác định phần di sản mà những người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định.
Thời hạn này không quá ba năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn ba năm mà bên còn sống chứng minh được việc chia di sản vẫn ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của gia đình họ thì có quyền yêu cầu tòa án gia hạn một lần nhưng không quá ba năm.
Hỏi: Sau khi cha tôi mất được 1 năm, anh em tôi đã tiến hành xong việc phân chia tài sản thừa kế theo di chúc của cha để lại. Bất ngờ vào ngày giỗ cha vừa qua, có một phụ nữ dắt theo cậu con trai 10 tuổi nhìn giống hệt cha tôi tìm về xin chịu tang cha tôi.
Bằng linh cảm, chúng tôi tin cậu bé chính là con rơi của cha và chúng tôi cũng rất cảm thương vì hoàn cảnh của mẹ con họ rất nghèo.
Có điều, hoàn cảnh của anh em tôi cũng không khá giả hơn, trong khi di sản của cha tôi thì lại phân chia hết rồi, mà thực ra trong di chúc của cha tôi cũng không chia phần cho mẹ con cậu bé kia. Xin hỏi trường hợp này nếu có tranh chấp thừa kế, pháp luật sẽ giải quyết như thế nào? (chị Hoàng Thị Sửu, 25 tuổi ở Lào Cai).
Trả lời: Tình huống của gia đình bạn thuộc trường hợp đã phân chia di sản mà xuất hiện người thừa kế mới- đó là người con riêng của cha bạn. Theo như bạn trình bày thì cậu bé này dù chưa cần giám định ADN nhưng gia đình bạn mặc nhiên thừa nhận đó là con rơi của cha vì rất giống cha mình.
Theo pháp luật, cậu bé con riêng của cha bạn cũng thuộc hàng thừa kế thứ nhất như anh chị em bạn. Mặc dù trong di chúc của cha bạn không chia phần cho người con này nhưng vì cậu bé này mới 12 tuổi nên được xác định là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc.
Theo Khoản 1 Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015 thì: “Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó: Con chưa thành niên…”.
Như vậy, nếu có tranh chấp về thừa kế trong trường hợp này thì cậu bé con riêng của cha bạn sẽ được hưởng 2/3 suất của một người thừa kế chia theo pháp luật.
Có điều, khối di sản của cha bạn để lại hiện đã được phân chia hết thì sẽ phải giải quyết quyền lợi cho cậu bé kia như thế nào?
Tại Điều 662 Bộ luật Dân sự 2015 về “Phân chia di sản trong trường hợp có người thừa kế mới hoặc có người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế” quy định như sau:
“1. Trường hợp đã phân chia di sản mà xuất hiện người thừa kế mới thì không thực hiện việc phân chia lại di sản bằng hiện vật, nhưng những người thừa kế đã nhận di sản phải thanh toán cho người thừa kế mới một khoản tiền tương ứng với phần di sản của người đó tại thời điểm chia thừa kế theo tỷ lệ tương ứng với phần di sản đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
2. Trường hợp đã phân chia di sản mà có người thừa kế bị bác bỏ quyền thừa kế thì người đó phải trả lại di sản hoặc thanh toán một khoản tiền tương đương với giá trị di sản được hưởng tại thời điểm chia thừa kế cho những người thừa kế, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
Như vậy, anh em bạn sẽ không thực hiện việc phân chia lại di sản bằng hiện vật, nhưng mỗi người phải có trách nhiệm thanh toán cho người em cùng cha khác mẹ một khoản tiền tương ứng với phần di sản của người đó tại thời điểm chia thừa kế theo tỷ lệ tương ứng với phần di sản đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Hỏi: Chú tôi đang thụ án tù trong trại giam, gần đây chú phát hiện mắc bệnh hiểm nghèo nên muốn lập di chúc phân chia tài sản cho các con khi còn đang khỏe mạnh, minh mẫn. Xin hỏi chú tôi có được xin phép trại giam cho về nhà làm các thủ tục công chứng, chứng thực di chúc hay bắt buộc phải mời công chứng viên vào trại giam để công chứng việc lập di chúc?
Nếu ở trong trại giam, chú tôi chỉ lập di chúc bằng văn bản mà không có người làm chứng thì liệu có hợp pháp không? (Anh Vũ Đạt, 27 tuổi ở An Giang).
Trả lời: Theo Điều 624 Bộ luật Dân sự thì di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết.
Như vậy, mọi công dân (không phân biệt có bị pháp luật hạn chế một số quyền công dân, quyền tự do đi lại… hay không) nếu có tài sản đều có quyền lập di chúc với điều kiện nội dung di chúc phải hợp pháp theo Điều 630 và tuân thủ các quy định về trình tự, nội dung trình bày bản di chúc theo quy định tại Điều 631 Bộ luật Dân sự 2015.
Tại Điều 635 Bộ luật này quy định: người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng/chứng thực bản di chúc chứ pháp luật không quy định bắt buộc di chúc phải có công chứng/chứng thực.
Theo các quy định trên, chú của bạn sẽ không nhất thiết phải mời công chứng viên đến trại giam để công chứng việc lập di chúc của mình; cũng như không được phép xin về nhà để thực hiện các thủ tục lập di chúc.
Việc chú của bạn muốn lập di chúc bằng văn bản mà không có người làm chứng cũng không được xem là hợp pháp trong thời gian đang phải chấp hành hình phạt tù. Bộ luật Dân sự 2015 tại Khoản 6 Điều 638 có quy định riêng về việc lập di chúc của người đang phải chấp hành hình phạt tù.
Theo đó di chúc của người đang bị tạm giam, tạm giữ, đang chấp hành hình phạt tù, người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh có xác nhận của người phụ trách cơ sở đó.
Như vậy sau khi hoàn thiện bản di chúc với nội dung hợp pháp, hình thức tuân thủ đúng quy định, chú của bạn cần phải xin chữ ký của giám thị trại giam, có đóng dấu xác nhận của trại giam.
Hỏi: Bác tôi mất đã 3 năm, theo nội dung di chúc bác để lại, khối tài sản của bác sẽ được chia đều cho 5 người con. Trong số những người con của bác hiện có một người đi làm ăn xa không rõ tung tích nhiều năm nay, nhưng vợ con người này vẫn ở nhà.
Xin hỏi trong trường hợp như vậy 4 người con còn lại của bác tôi có thể tiến hành chia thừa kế theo di chúc mà vắng mặt người kia có được không? Có khi nào để lâu di chúc sẽ hết hiệu lực hay không? (chị Vũ Ngọc Anh, 31 tuổi ở Vĩnh Phúc).
Trả lời: Điều 643 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về Hiệu lực của di chúc như sau: 1. Di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế.
2. Di chúc không có hiệu lực toàn bộ hoặc một phần trong trường hợp sau đây: a) Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; b) Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có người chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, một trong nhiều cơ quan, tổ chức được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di chúc có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức này không có hiệu lực.
3. Di chúc không có hiệu lực, nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực.
4. Khi di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực.
5. Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu lực.
Như vậy, điều luật không có quy định nào về việc để lâu di chúc sẽ hết hiệu lực. Trong trường hợp của gia đình bác bạn, do có một đồng thừa kế đi làm ăn xa không rõ tung tích, nếu 4 đồng thừa kế còn lại muốn tiến hành chia thừa kế theo di chúc mà vắng mặt người kia thì trước tiên phải làm thủ tục yêu cầu tòa án tuyên bố người vắng mặt bị mất tích theo quy định tại Điều 68 Bộ luật Dân sự.
Sau khi có quyết định tuyên bố mất tích (hoặc bị tuyên bố chết) đã có hiệu lực pháp luật, các đồng thừa kế còn lại sẽ tiến hành thỏa thuận chia thừa kế theo di chúc; kỷ phần của người bị tuyên bố mất tích (hoặc bị tuyên bố chết) sẽ được giao cho vợ, con người đó quản lý.