Thời phong kiến, nhà vua mỗi năm xuất hiện cho thần dân chiêm ngưỡng tôn nhan một lần vào dịp Tết. Thế nhưng sau khi Nam kỳ bị thất thủ vào tay quân Pháp, vua Tự Ðức buồn rầu, ẩn lánh trong cung và chỉ ra ngoài bằng thuyền hay kiệu che kín mít. Vua Ðồng Khánh từ khi mới lên ngôi muốn quay lại noi theo cổ tục của tổ tiên.
Tin nên đọc
Khai mạc đường sách Tết Mậu Tuất
Tết sớm của “thánh phượt” Vừ Già Pó
Chào xuân Plus 2018: Độc đáo, cây tượng trưng cho "mâm ngũ quả" tròn đầy trong ngày Tết
Xuống phố ngày Tết với cây cảnh 'độc lạ'
Bác sĩ quân y Pháp Hocquard Edouard, tác giả cuốn sách “Une campagne au Tonkin” (Một chuyến viễn chinh ở Bắc kỳ) đã thuật lại sự việc này. Sự kiện diễn ra vào dịp Tết năm 1886 ở Huế. XLPL xin giới thiệu để bạn đọc tham khảo.
|
Vua Đồng Khánh lên ngôi từ tháng 10/1885 – 12/1888. |
“Tục lạ” trong mắt người nước ngoài
“Từ sáng nay cả thành phố Huế tưng bừng nô nức: Sắp đến Tết đầu năm An nam. Trong non một tháng trời, dân chúng, giàu cũng như nghèo, đình hết mọi việc để ăn uống, rong chơi. Không ai buôn bán, cày bừa, không làm những việc chán ngán.
Lớn bé đều diện quần áo đẹp. Những người nghèo khó bán cả đồ đạc còn sót trong nhà, đi vay nợ, để có tiền tiêu Tết. Tục ngữ An nam có câu “Ðầu năm phải tốt đẹp không thì rông cả năm”. Các bộ, viện đều đóng cửa.
Từ 25 tháng Chạp âm lịch, triều đình ngừng làm việc, không ký và đóng dấu các công văn nữa, hộp đựng ấn tỷ sẽ khóa cho tới ngày 11 tháng Giêng năm sau.
Những hạng cùng đinh, một năm chỉ được nghỉ ba lần, mỗi lần một ngày, còn thì phải phục vụ những người giàu sang, nhưng dịp này họ bắt phải trả đắt, vì không mấy người làm việc nên họ có thể đòi hỏi nhiều.
Tất cả mọi cửa hiệu đều đóng cửa im ỉm, thành phố như chết nếu không có tiếng pháo và tiếng các nhạc khí. Những người thuộc hạng trung lưu và các quan thì mặc lễ phục đi chúc Tết, trao đổi những cánh thiệp lớn màu đỏ cùng quà cáp.
Tết cũng là ngày vui của trẻ con, để đáp lại những lời chúc tụng, chúng được lì xì những đồng tiền kẽm bao giấy đỏ. Chỗ nào cũng thấy đỏ rực, màu đỏ vốn là màu của vui mừng.
Trước cửa mỗi nhà người ta trồng những cành tre lớn còn đầy lá, cũng có những cột trên ngọn trang trí bằng tàu lá dừa hay chùm lông gà, đèn treo đủ mọi màu sắc.
Cây cột này trồng cho tổ tiên hay cha mẹ đã mất. Dân chúng tin rằng hàng năm vào dịp Tết vong linh tổ tiên trở về thăm gia đình và ở lại ăn Tết, thế thì cần phải để hồn người chết nhận biết nhà của con cháu mà vào.
Cây cột có mục đích chặn họ lại không để đi quá nhà. Trước ngưỡng cửa, nhà nào cũng vạch xuống đất những hình cung tên xếp tréo nhau bằng vôi bột. Tục lệ này nhắc lại tích đức Phật đánh dẹp ma quỷ . Có người còn lấy cây xương rồng và những cành cây có gai bịt kín cửa để ma quỷ không vào được nhà quấy nhiễu mất vui.
Ngoài cổng, mé trái bức tường, dựng một bàn nhỏ thắp đèn hương thờ thần giữ cửa, nhà giàu bày hoa, vàng giấy, bánh trái, cỗ bàn ngày hai buổi cúng bái.
Trong nhà, bàn ghế được kê lại, đổi chỗ, cuối sân chăng dây kết hoa hay giấy sặc sỡ, thờ thần giếng. Những ông thầy bói thì đến cân nước để đoán quẻ: Trong hai cái lọ dung tích bằng nhau người ta đổ hai khối nước như nhau, một đựng nước múc trước ngày Tết và một đựng nước múc sau Tết.
Nếu lọ nước múc trước ngày mồng Một nặng hơn lọ múc sau thì thầy bói cho là điềm gở, trong năm phải cẩn thận. Những người đầy tớ cũng sung sướng trong dịp lễ này. Chẳng ai mắng mỏ họ một câu. Nếu mắng ắt cả năm sẽ rông, họ bảo thế.
Vào dịp Tết người ta ăn nhậu của ngon vật lạ, mỗi ngày họ ăn ba bữa chính và bao giờ cũng đem lên cúng một mâm cỗ mới. Trong bếp luôn luôn thắp nhang cúng ba vị thần (Vua Bếp hay Táo công) sống ở ba hòn đá trong bếp (cái kiềng bếp ba chân).
Từ khi Tết bắt đầu, dân chúng lũ lượt đi sửa sang mồ mả (có ngôi mộ chỉ là nấm đất, người giàu sang xây mộ đá, tường vây xung quanh...). Không gì kỳ lạ bằng quang cảnh từng đoàn người thợ thuyền xúm xít nhổ cỏ và sơn phết lại các lăng mộ.
Hình nhân tượng trưng lãnh chúa các miền xa Tết năm nay rơi vào ngày 18 tháng Giêng dương lịch. Ngay từ sáng thành phố Huế đã nhộn nhịp khác thường: Các ông quan, các ông hoàng, và lũ lượt theo sau là một đám đông tùy tùng, mặc phẩm phục tiến vào thành nội để chúc Tết vua (Ðồng Khánh).
Khắp nơi, các Ngự lâm quân vũ trang gươm giáo giám thị bờ sông để giữ trật tự đám thuyền bè đông đảo chuyên chở các quan chức.
Tất cả quân đội Pháp đều trưng dụng, đứng làm hàng rào từ cổng thành tới cung điện (Thái Hòa), suốt thời gian vua thiết đại triều đón tiếp Thiếu tướng Prudhomme và viên Khâm sứ.
Tại sân thứ nhất của Hoàng thành, quang cảnh thật là ngoạn mục: Từ cửa Ngọ môn đến sân chầu, các đội Hải quân bộ binh mặc lễ phục, đội mũ trắng, đeo binh khí, dàn thành hai hàng hai bên thành cái cầu nhỏ dẫn tới cung điện.
Cái mũ trắng này đã khiến bộ Lễ phải thương lượng rất lâu vì màu trắng là màu tang tóc, trong dịp Tết vui mừng mà dùng màu trắng là điềm chẳng lành cho năm mới.
Trong hai ngày ròng rã, bộ Lễ liên tiếp gửi cho Prudhomme hết thư này đến thư khác, điều đình xin đổi màu mũ nhưng viên tướng Pháp khăng khăng một mực: Trời nắng chang chang mà đội mũ đen có thể khiến quân sĩ bị say nắng.
Giữa sân chầu, đại đội lính khố đỏ Bắc kỳ đứng thành hai hàng để chừa ở giữa một khoảng rộng làm lối đi cho tướng Prudhomme.
Ðằng sau lính khố đỏ, cách quãng đều nhau là những bia đá chạm trổ, khắc chữ nho, các quan đứng sắp hàng theo thứ bậc cạnh những cái bia ấy, bên trái dành cho quan văn, bên phải là quan võ.
Tất cả đều mặc triều phục, áo bào dài thườn thượt, tay áo rộng thùng thình, lưng thắt đai khảm ngọc quý nhiều màu, đằng sau lại trang điểm cái gì như hai cái cánh rung rinh mỗi khi họ cất bước, chân mang hia bằng vải thâm, đế dạ dầy dặn.
Mỗi ông quan cầm trong tay một cái giống như cái vương vị (hốt) bằng ngà. Mũ hơi giống mũ tế của các giám mục, phủ trán, bọc vải đen tô điểm bằng kim tuyến và những viên ngọc màu, trùm lên trên cái lưới bao tóc sát thái dương.
Hinh dáng mũ và xiêm áo của tất cả các quan giống nhau nhưng gấm vóc may áo, những hình thêu trên áo hay những đồ trang sức trên mũ thay đổi tùy phẩm tước: Áo quan văn thêu con phong (phụng?), một loại chim ưng đang giang cánh, quan võ thì thêu hình đầu con hổ.
Với quan chức cấp dưới thì những trang sức đều ở vuông lụa trước ngực chiếc áo thụng bằng gấm đồng màu xanh lam, mũ điểm trang cũng sơ sài thôi. Các đại thần mặc áo bào xa hoa sắc màu lộng lẫy, nhiều nhất là màu quan lục.
Áo gấm thêu hoa lá, hai bên mũ tô điểm vàng, đính hai miếng vải cứng giống như cánh con chuồn chuồn, trên thêu rồng. Các hoàng thân tụ tập ở phía trên các quan, ngay trong cung điện: Họ khoác những tấm áo đỏ thêu kim tuyền lóng lánh rực rỡ.
Ở góc sân chầu, hai bên cung điện là các nhạc công mặc sắc phục đỏ, người thì mang nhạc khí tựa như kèn tây, kẻ đặt trống trên cái giá ở trước mặt. Bên cạnh là lính hầu cầm tàn lọng, gươm giáo, lắp vào cái cán gỗ dài là búa rìu, rồng trượng, bàn tay ngà biểu thị vương quyền.
Hai bên sân chầu, những con voi khổng lồ trang sức mỹ lệ, chân đeo vòng kim khí, ngà treo vòng chạm trổ những hình kỳ dị, đứng trầm ngâm, lưng mang ghế bành thếp vàng trong đặt một hình nhân ngồi, che một chiếc lọng vàng to do tên thủ hạ cầm, đứng đằng sau, trên mông con voi. Hình nhân này đại diện cho các lãnh chúa phục tùng triều đình, từ các miền xa xôi nhân dịp lễ Tết về chầu.
Cái Tết nối lại tục “xem mặt vua”
Thình lình, một sự yên lặng sâu thẳm lan ra khắp các quan và lính. Một điệu nhạc vọng ra như từ chốn xa xăm, phía sau cung điện mà các cửa trong cùng đều mở, báo hiệu vua sắp lâm triều.
Tiếng nhạc to dần, tựa như một bản hành quân nhịp điệu kỳ lạ, cứ trở đi trở lại mãi một âm điệu trầm buồn, u hoài, phát ra từ những nhạc khí có âm thanh rất êm nhẹ tựa như một dàn nhạc gồm ống tiêu, vĩ cầm, đàn ghi ta.
Một tiếng lanh lảnh kéo dài vang lên ở cuối cung điện và được các truyền lệnh sứ thay nhau nhắc lại, đứng rải rác từ tẩm cung ra đến sân chầu, qua các hành lang và những con đường vua phải đi qua để ra ngự triều.
Và đây mở đầu đám rước: Trước tiên là đoàn Ngự lâm mặc áo điều, đầu đội mũ lưỡi trai xuống đến gáy bằng giấy bồi sơn, tay dựng tua tủa những thanh gươm rất dài tra trong vỏ gỗ, cán bịt bạc. Rồi đến các môn vệ vác búa trượng khắc những hình kỳ quặc.
Thị vệ cầm những sợi xích sắt treo trên cán ngắn, những đỉnh trầm hương khói nghi ngút. Bọn khác cầm quạt lông ngựa xua ruồi, cờ thêu viền răng cưa giả hình ngọn lửa. Cả đoàn khoan thai tiến từng bước rồi dàn ra hai bên ngự tọa.
Cuối cùng nhà vua xuất hiện giữa bốn tên Thị vệ ăn mặc rất đẹp, khiêng bốn cái lọng vàng che cho vua. Vua mặc một bộ áo hình dáng cũng tựa như áo các quan nhưng bằng vóc vàng thêu chỉ vàng.
Màu vàng là màu dành riêng cho vua dùng, ở nước Nam chỉ có vua mới được mặc màu vàng, các quan mà dám dùng màu này trước công chúng là mang tội khi quân, lập tức bị án tử hình. Vua đi đôi ủng đen, dát vàng, tay cầm một cái vương quyền bằng ngà (hốt ngà), đầu đội mũ cùng màu với áo, khảm kim cương, ngọc trai, hoàng ngọc.
Chiếc kim khánh bằng vàng chạm ngọc trai và kim cương đeo lủng lẳng ở cổ bằng một sợi dây chuyền vàng. Trên ngực áo cẩm bào thêu hai chữ nho “Vạn thọ”.
(...) Vua vừa ngồi xuống, thình lình vang lên từ phía đầu thành tiếng kèn tây rộn rã của binh sĩ Pháp. Tướng Prudhomme, bên phải sóng vai viên Khâm sứ, nối đuôi là các sĩ quan và rất nhiều công chức, thông ngôn, vừa mới tiến vào sân thứ nhất, đi giữa hai hàng rào quân đội Pháp bồng súng chào trong khi lính thổi kèn tấu nhạc.
Khi Prudhomme bước lên thềm sân chầu thứ nhất thì vua đứng dậy, rời long ỷ, đường bệ bước xuống, tiến ra cửa cung đón tiếp viên đại diện nước Pháp.
Bốn tên Thị vệ theo sau che lọng. Tướng Prudhomme ngỏ lời chúc mừng năm mới, được người thông ngôn chính của tòa Khâm sứ dịch ngay ra. Vua đáp lại mấy lời nhã nhặn rồi tướng Prudhomme cáo từ ra về với những nghi thức y như khi đến. Nhưng chưa hết. Bây giờ mới tới những nghi lễ hấp dẫn, thú vị nhất.
Các hoàng thân, đại thần làm lễ tuyên thệ trung thành với vua theo đúng thủ tục mỗi khi bước sang năm mới. Các quan sắp thành sáu hàng, quay mặt về phía cung điện.
Theo hiệu lệnh của Thượng thư bộ Lễ, tất cả quỳ xuống, dập đầu sát đất, tuyên thệ trong khi âm nhạc nổi lên gợi cho ta phảng phất nhớ tới những buỗi lễ hát trong giáo đường.
Các quan lom khom lên gối xuống gối ba lần như thế, và giữa hai lần phủ phục, âm nhạc trong cung văng vẳng đưa ra, vẫn cái điệu u hoài, uể oải.
Tôi rất chú ý đến cái cảnh tượng đặc biệt tôn nghiêm ấy: Đám đông các quan mặc phẩm phục rực rỡ, lóng lánh dưới ánh dương quang, quỳ rạp giữa hai hàng voi đứng im phăng phắc, điệu nhạc kỳ dị, hương trầm bát ngát bay trong không gian, tất cả chập chờn, như ẩn như hiện trong bóng tối mờ mờ của gian ngự điện rộng thênh thang.
Một ông vua trẻ tuổi, trạc đôi mươi, trong chiếc long bào màu vàng rộng thùng thình, nét mặt vô cảm hệt như một pho tượng, và người ta quỳ gối sùng bái như phụng thờ một vị thần linh trong một khung cảnh tuyệt vời với những tòa cung điện, một quang cảnh không thể nào quên được.
Buổi lễ triều kiến kết thúc, vua vừa ra khỏi ngự điện thì những vệ sĩ và quan thuộc cấp từ từ giải tản dần. Các hoàng thân, đại thần được vua ban yến trong cung. Những lời khen tặng, những phần thưởng đã được vua ưu ái ban phát cho những người làm việc xứng đáng trong năm qua.
Ngày xưa, hoàng đế An nam mỗi năm xuất hiện cho thần dân chiêm ngưỡng tôn nhan một lần vào dịp Tết. Nhưng sau khi Nam kỳ bị thất thủ vào tay quân Pháp, vua Tự Ðức buồn rầu, ẩn lánh trong cung và chỉ ra ngoài bằng thuyền hay kiệu che kín mít (...).
Vua Ðồng Khánh từ khi mới lên ngôi muốn quay lại noi theo cổ tục của tổ tiên. Ðồng hồ điểm đúng 3h, một tiếng súng vang ra từ thành nội báo hiệu vua xuất hành.
Ðám rước vượt qua chiếc cầu gỗ lớn vắt ngang sông, tiến sang Ðông Ba, đi đủng đỉnh giữa hai hàng lính Pháp, đằng sau lũ lượt hộ giá có cả nghìn người gồm các hoàng thân, Thượng thư, đại thần, Thị vệ, các nhạc công, Ngự lâm quân mang gươm giáo, cờ quạt, tàn lọng.
Vua ngự trên chiếc kiệu thếp vàng do bốn người lực lưỡng khiêng, che bốn lọng vàng. Dân chúng xúm đông hai bên đường, phủ phục khi vua đi qua.
Những tràng pháo nổ liên thanh, không khí tỏa ngát trầm hương từ những cái án thư nhỏ bầy lộc bình, phủ vải điều thêu, dựng khắp nơi bên đường vua đi qua.Ðứng trước án thư là các kỳ lão ở Huế đến chào mừng hoàng đế và cũng để tiếp nhận phần thưởng dành cho những bô lão trường thọ do vua ban theo đúng Kinh Lễ.
Vua dừng lại trước tòa Thương bạc để thăm viên chủ soái quân đội Pháp. Từ sân, vua được tướng Prudhomme song song sánh bước cùng viên Khâm sứ và toàn thể binh sĩ ra nghênh giá. Một tiệc chiêu đãi nhỏ đã bày sẵn.
Vua ngồi giữa Prudhomme và viên Khâm sứ ở chiếc bàn đặc biệt, kê trên một cái bục hơi cao trong khi tại phòng bên, các đại thần và các ông hoàng ngồi ăn uống ở những cái bàn thấp hẳn hơn”.
Phóng viên báo Figaro (Pháp) cũng có mặt ở Huế vào dịp Tết 1886 và đã tường thuật như sau: “Dẫn đầu đám rước là hai con voi, hai con ngựa của vua do ba tên thị vệ dắt, rồi đến quân nhạc, âm nhạc An nam, những người mang gươm giáo, tàn lọng... Vua ngồi trên kiệu, bên phải có tướng Prudhomme, bên trái là Ðại tá Brissaud, cả hai đều cưỡi ngựa, theo sau là đội lính thổi kèn, rồi đến các ông Hoàng, Thượng thư, nhân viên tòa Khâm, sĩ quan Pháp, các quan đủ mọi cấp bậc, một đám phu mang đồ đạc bằng gỗ thếp vàng, bạc, cờ xí… Ði đoạn hậu là sáu con voi, một toán bộ binh xứ Algérie… Ðường phố Ðông Ba trước cửa mỗi nhà đều đặt một án thư trên đốt trầm hương. Khi đám rước đã đi qua rồi, đường phố lại ồn ào đông nghịt những người, pháo liên thanh nổ... 5h chiều chấm dứt buổi diễu hành, vua trở về cung và sau đó gửi tặng tướng Prudhomme một thanh gươm. Chiều tối, tướng Prudhomme dự một tiệc yến trong vòng thân hữu ở cung điện”. |