Dòng chữ được khắc trang trọng bằng cả tiếng Việt và tiếng Nga, thu hút sự chú ý đặc biệt của du khách mỗi khi đặt chân đến đây.
Tin nên đọc
Clip - Thủy điện Bản Vẽ chính thức xả lũ, cột nước cao hơn tòa nhà 10 tầng
Vụ án tái định cư thủy điện Sơn La: Kết luận điều tra có phản ánh đúng bản chất sự việc?
Vỡ đập thủy điện ở Lào: Lực cứu hộ đưa người dân ra khỏi vùng ngập
Người Việt về nước tránh lũ sau vụ vỡ đập thủy điện ở Lào
Nơi đây lưu giữ bức thư của những người xây dựng Thủy điện Hòa Bình gửi thế hệ mai sau. Thư này sẽ được mở vào ngày 1/1/2100”. Dòng chữ được khắc trang trọng bằng cả tiếng Việt và tiếng Nga, thu hút sự chú ý đặc biệt của du khách mỗi khi đặt chân đến nơi lưu giữ “bức thư thế kỷ” tại Công trình thủy điện Hòa Bình.
|
Thủy điện Hòa Bình - Công trình thủy điện đầu tiên trên sông Đà. |
Ký ức về trận lụt kinh hoàng
Sinh ra ở bên dòng Đà giang nước xanh thăm thẳm, những người trung tuổi quê tôi miền Thanh Thủy (Phú Thọ) vẫn còn nhớ, hồi chưa có đập Hòa Bình, mùa bão năm nào, nước cũng ngập mấp mé sân vườn.
Đặc biệt, trận “đại hồng thủy” vỡ đê năm 1971 vẫn còn ám ảnh với không ít người. Theo đó, trận lụt xảy ra vào giữa tháng 8 năm 1971. Theo thống kê, lũ lụt đã khiến rất nhiều người thiệt mạng và gây thiệt hại về tài sản khoảng 70 triệu đồng theo thời giá bấy giờ.
Nếu tính theo thời điểm 2015 thì con số này ước vào khoảng đến 10 nghìn tỷ đồng. Đây được xem là trận lũ lụt lớn nhất trong vòng 250 năm ở miền Bắc Việt Nam và trong 100 năm ở vùng đồng bằng sông Hồng.
Tác động của trận lũ khiến 13 tỉnh thành phía Bắc vỡ đê lớn. Nhiều đoạn đê khác cũng đã bị vỡ với chiều dài đoạn bị hỏng là tương đối lớn. Vỡ đê đã gây ngập lụt diện rộng trên khu vực đồng bằng Bắc Bộ.
Chỉ tính riêng bốn tỉnh Hải Hưng, Hà Bắc, Vĩnh Phú, Hà Tây, trận lụt đã làm 1062 xã của 94 huyện với 2,9 triệu hộ gia đình bị ngập lụt nặng, bằng hơn 40% tổng số hộ gia đình…
“Thế nhưng, từ ngày có đập thủy điện, không năm nào, nước dâng quá mặt đê nữa”, một người dân ở khu vực Đoan Thượng (huyện Thanh Thủy) nơi từng xảy ra vỡ đê năm nào nhớ lại. Đó có lẽ là 1 trong những tác động rõ nhất của việc chặn dòng sông Đà làm thủy điện trong cảm nhận của người dân.
Giấc mơ của biết bao đời
Trong công trình nghiên cứu về địa lý tự nhiên Việt Nam ngay sau ngày hai miền thống nhất, cố Giáo sư Lê Bá Thảo viết về sông Đà:
“…sau khi rời bỏ nguồn của mình nằm ở phía nam Mông Hóa gần làng Sin Cai (Vân Nam, Trung Quốc) chững chạc đi vào lãnh thổ Việt Nam ở Mường Lai, rồi theo một đường gần như thẳng tắp, chạy một mạch đến gần Lai Châu, nơi nó tạo ra khúc ngoặt lớn đầu tiên trên toàn bộ chiều dài của nó (…)”.
“Thượng lưu sông Đà… vây quanh dãy núi cao thứ hai ở miền Bắc: đấy là dãy núi Pu Si Lung, có đỉnh cùng tên cao đến 3076m, được cấu tạo bằng các đá granit và mêtagranit (…)
Sườn các thung lũng vì vậy rất dốc (đến 40 độ), sông gần như chảy trong các hẻm vực tối om vướng hàng loạt gềnh và các suối bắt nguồn từ các đỉnh núi cao hồng hộc chảy xuống sông, lòng suối ngổn ngang không biết bao nhiêu là đá tảng”.
Còn cụ Nguyễn Tuân, ngay trong câu đầu tiên trong thiên tùy bút nổi tiếng về sông Đà đã trích dẫn câu của Nguyễn Quang Bích từ thế kỷ trước: “Chúng thủy giai Đông tẩu, Đà giang độc Bắc lưu” nghĩa là mọi con sông đều chảy về hướng Đông, còn riêng sông đà lại chảy về hướng Bắc.
Câu thơ vừa tả thực đoạn sông Đà chảy theo hướng Tây Bắc – Đông nam nhưng khi qua ngã ba Trung Hà lại ngoặt lên hướng Bắc qua Tam Nông (nơi Nguyễn Quang Bích khởi nghĩa) trước khi hợp lưu với sông Thao, sông Lô ở ngã ba Bạch Hạc tạo nên hệ thống sông Hồng hùng vĩ ở miền Bắc nhưng cũng vừa cho thấy tính cách “dữ dằn”, hung bạo của con sông.
Sông Đà hiện lên dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân thật dữ tợn với những hút nước sâu thăm thẳm, những quãng sông đầy ghềnh thác, những vách đá dựng thành vách.
Tiếng nước “réo”, “tiếng nước thác nghe như là oán trách… van xin… khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo… nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng…”.
Nước như một đội quân hùng mạnh, dữ tợn: “mặt nước hò la vang dậy... có lúc chúng đội cả thuyền lên”. Rồi ngay cả câu chuyện “Sơn Tinh – Thủy tinh” từ đời Hùng Vương xa xăm, “hàng năm cứ vào khoảng tháng bảy, tháng tám lại dâng nước”. Xem thế, để biết, cha ông ta, ngay từ rất sớm đã muốn “thống trị” dòng sông nhưng chỉ e sức người có hạn.
|
Nơi lưu giữ lá thư. |
Chinh phục dòng sông hung hãn
Ngay từ khoảng đầu những năm 70 của thế kỷ trước, Nhà nước ta đã bắt đầu tiến hành việc chuẩn bị triển khai xây dựng một nhà máy thủy điện lớn trên dòng sông Đà.
Cũng trong năm 1971, các chuyên gia Liên Xô bắt đầu được cử sang Việt Nam để cùng tiến hành khảo sát, thiết kế và chuẩn bị thi công xây dựng. Khi tiến hành khảo sát, các chuyên gia Liên Xô có tham khảo tài liệu địa chất và thủy văn của người Pháp để lại.
Chính vì thế mà họ đã gọi sông Đà là sông Đen (do dịch tên con sông này từ tiếng Pháp, bởi vào mùa lũ, sông vô cùng hung dữ và gây nhiều thảm họa cho dân cư và mùa màng dưới hạ lưu).
"Việc các chuyên gia Liên Xô sang làm việc ở sông Đà gợi lên hình tượng thú vị là những người từ biển Đen (Triô-rơ-nôi-e Mô-ri-e) đến chinh phục dòng sông Đen (Tri-ô-rơ-nai-a Re-ka)", ông Đỗ Xuân Duy, nguyên Trưởng ban phiên dịch cho chuyên gia cơ giới kiêm thư ký của ông Phan Ngọc Tường (Thứ trưởng Bộ Xây dựng trực tiếp làm Tổng Giám đốc Tổng Công ty xây dựng thủy điện Hòa Bình), đồng thời cũng là người gắn bó với công trình này từ những ngày đầu tiên hóm hỉnh ví von.
Các chuyên gia địa chất, thủy văn Việt Nam và Liên Xô đã thực hiện nhiều chuyến đi dọc sông từ Hòa Bình - Sơn La - Lai Châu cả bằng đường bộ, đường thủy và đường không (máy bay trực thăng).
Trong những năm 1981 - 1982, công trình thủy điện Hòa Bình bước vào giai đoạn nước rút để kịp tiến độ ngăn sông Đà đợt 1 vào đầu năm 1983. Lúc này, nhiều biểu ngữ, khẩu hiệu xuất hiện trên khắp công trường.
Đó là "Tất cả vì dòng điện ngày mai!", "Hôm nay làm việc tốt hơn hôm qua. Ngày mai phải tốt hơn hôm nay"... đã cổ vũ hàng vạn cán bộ, công nhân, chuyên gia trên công trường hăng say thi đua và không ngừng sáng tạo để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Để xây dựng thành công một nhà máy thủy điện tầm cỡ lớn nhất Đông Nam Á lúc bấy giờ, trong suốt 15 năm liên tục (1979 - 1994), hàng chục vạn con người đã ngày đêm lao động quên mình, vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, cùng hướng tới một mục đích duy nhất là ngăn sông Đà xây nhà máy thủy điện.
Nhà máy được xác định là công trình trọng điểm quốc gia, có nhiệm vụ cung cấp điện năng 8, 14 tỉ KW/năm, chống lũ cho đồng bằng hạ lưu sông Hồng với dung tích điều tiết của hồ chứa 5, 6 tỉ m3 nước, nâng cao mực nước mùa cạn cho hạ lưu sông Đà với sông Hồng và mang lại cho đất nước nhiều lợi ích to lớn khác.
Từ khi khởi công đến khi hoàn thành công trình vĩ đại này, công trường luôn là một guồng máy khổng lồ với sự tham gia của hàng ngàn kỹ sư trẻ, hàng vạn thợ lành nghề, lái xe, phiên dịch, lao động thủ công, chuyên gia đến từ các nước thuộc Liên bang Xô Viết...
Một khối lượng công việc đồ sộ đã được hàng chục vạn người “lính” công trường nơi đây hoàn thành xuất sắc sau hơn 4.400 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, quên ăn, quên ngủ:
Xây dựng hàng trăm ngàn m2 nhà xưởng; đào hàng chục triệu m3 đất, đá; đào 16.000 m hầm; đắp đập 20 triệu m3 ; bê tông 1, 5 triệu m3; kết cấu thép 85.000 tấn. Từng hạng mục công trình đã được hoàn thành với tiến độ đáng kinh ngạc, thể hiện một cách thuyết phục tinh thần “dời non, lấp biển” của một thế hệ lao động anh hùng.
Lá thư gửi hậu thế
Trong thời gian thi công, ông Bô-gô- tren-cô - Tổng chuyên viên Liên Xô trên công trường đã nêu ra một khuyến nghị: Nhân dịp ngăn sông Đà, nên có một lá thư để lại cho mai sau.
"Đó là việc làm bình thường, đã trở thành truyền thống ở các nước mà có nghề xây dựng thủy điện lâu năm, ví như Liên Xô. Thông thường, trước khi ngăn đập, họ cùng nhau bàn bạc thảo ra một lá thư, rồi cho vào chai hoặc lọ, đậy kín lại rồi chôn vào thân đập.
Họ hy vọng, một trăm năm sau hoặc lâu hơn nữa, khi con đập vỡ, cái chai đựng thư đó trôi lềnh bềnh, ai đó sẽ bắt được và mở ra xem, biết rằng người ta đã làm công trình này như thế nào", ông Duy kể lại.
Ý tưởng này được đồng chí Đỗ Mười, khi đó đang là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, trực tiếp làm Trưởng ban Chỉ đạo xây dựng công trình thủy điện Hòa Bình rất ủng hộ.
Tuy nhiên, việc lưu giữ lá thư gửi hậu thế sẽ được tiến hành với nghi thức trang trọng tại một địa điểm xứng đáng, chứ không phải đem chôn vào trong thân đập.
Tổng Công ty xây dựng thủy điện Hòa Bình đứng ra tổ chức kêu gọi các nhân sĩ trí thức, nhà văn, nhà báo, những người tâm huyết với công trình thủy điện Hòa Bình viết những bức thư dự thảo gửi thế hệ mai sau (cả bằng tiếng Việt và tiếng Nga) để biên tập thành "Thư của những người xây dựng Thủy điện Hòa Bình gửi thế hệ mai sau".
Ngày 31/1/1983, trên trang nhất báo Nhân Dân có đoạn: "…Trong không khi dạt dào tình hữu nghị anh em, đồng chí Vũ Mão và đồng chí V.M.Mi-sin long trọng chuyển bức thư "Gửi thế hệ trẻ Việt Nam mai sau" vào kho lưu trữ...".
Sự kiện này diễn ra sau lễ ngăn sông Đà đợt I và khởi công xây dựng Nhà máy Thủy điện Hòa Bình 18 ngày.
Cái " kho lưu trữ" đó thực chất chỉ là một khối bê tông hình thang có cạnh đáy 2 mét, chiều cao 1,8mét, cạnh trên 0,8 mét nặng gần 10 tấn nay vẫn nằm ở sân nhà lưu niệm thủy điện Hòa Bình. Bức thư được chép thành hai bản, mỗi bản để trong một ống đồng được hút chân không, mỗi ống để trong một hộp mika.
Tại sao đến năm 2100 mới được mở?
Về việc này, có hai ý kiến giải thích. Thứ nhất, đã là thư gửi "thế hệ đời sau" thì có nghĩa là lúc đó, những người sinh ra vào lúc Thủy điện Hòa Bình khởi công, có lẽ không còn mấy người, và những công nhân, kỹ sư... tham gia xây dựng nhà máy cũng đã thành người "thiên cổ" từ lâu.
Thứ hai, vào năm 2100, lớp bùn dưới lòng hồ đã dày thêm khoảng 56m, như vậy là không thể phát điện được nữa. Cần phải cho nhà máy nghỉ ngơi để nạo vét lòng hồ, hoặc phá bỏ nhà máy... Và lúc đó mới mở lá thư cho thế hệ ngày đó biết ngày xưa, lớp cha ông đã lao động như thế nào.