Hiện nay nhiều doanh nghiệp nhà nước (DNNN) được định giá quá thấp khi cổ phần hóa, gây thất thoát tài sản Nhà nước.
Kết quả kiểm toán năm 2016 định giá doanh nghiệp (DN) và xử lý các vấn đề về tài chính trước khi cổ phần hóa của 7 DN, kiểm toán nhà nước (KTNN) xác định vốn Nhà nước tăng thêm 20.818 tỷ đồng. Qua đó cho thấy, hiện nay nhiều doanh nghiệp nhà nước (DNNN) được định giá quá thấp khi cổ phần hóa, gây thất thoát tài sản Nhà nước.
Trong đó, các khâu yếu được chỉ ra là: Việc lựa chọn phương pháp định giá, xác định giá trị thương hiệu, lợi thế kinh doanh, giá trị các khoản đầu tư tài chính, giá trị quyền sử dụng đất.
Còn nhiều vướng mắc về pháp lý
Đó là khẳng định của TS Hồ Đức Phớc, Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng KTNN tại hội thảo quốc tế do KTNN và Hiệp hội Kế toán Công chứng Vương quốc Anh (ACCA) phối hợp tổ chức ngày 21-8. Theo đó, trong thực tế, hệ thống văn bản pháp lý liên quan đến công tác xử lý tài chính và xác định giá trị DN trước khi thực hiện cổ phần hóa vẫn còn những bất cập, nhất là liên quan đến giá trị quyền sử dụng đất hay lợi thế vị trí địa lý, giá trị thương hiệu, quy định tổ chức đấu thầu chọn tổ chức tư vấn định giá, các quy định về xác định giá trị thị trường của tài sản. Một vấn đề mà thực tiễn đặt ra nhưng chưa được quy định tại các văn bản pháp luật hiện hành, như ngoài DNNN thì việc xác định giá trị DN khác được thực hiện thế nào, cần phải hoàn thiện pháp luật để thực hiện sát với thực tiễn.
|
Công khai, minh bạch quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhằm hạn chế thất thoát vốn, tài sản công. http:thoibaotaichinhvietnam.vn |
Thứ trưởng Bộ Tài chính Trần Văn Hiếu nhận định, trên thực tế việc xác định giá trị DN để tiến hành cổ phần hóa hiện nay mới dừng lại ở hai phương pháp cơ bản (thông lệ quốc tế là 5 phương pháp) là: Phương pháp tài sản và phương pháp dòng tiền chiết khấu. Tuy nhiên, phương pháp dòng tiền chiết khấu chỉ áp dụng với các DN thống kê được các chỉ tiêu tài chính trong thời gian hoạt động trước khi xác định giá trị DN tối thiểu là 5 năm và có kế hoạch sản xuất kinh doanh trong 5 năm sau cổ phần hóa; có tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn Nhà nước bình quân 5 năm liền kề trước khi xác định giá trị DN cổ phần hóa cao hơn lãi suất của trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 5 năm được phát hành tại thời điểm gần nhất với thời điểm xác định giá trị DN. Vì vậy, trong một số trường hợp, việc xác định mang tính chủ quan (phụ thuộc vào thông số thống kê đầu vào) dẫn đến kết quả chưa phản ánh đúng giá trị thực của DN.
TS Nguyễn Ngọc Tuấn, Chủ tịch Hội đồng Thẩm định giá Việt Nam cho rằng, môi trường pháp lý về xác định giá trị DN nói chung, xác định giá trị DN để cổ phần hóa DNNN nói riêng ở nước ta chưa hoàn chỉnh. Trong các quy định hiện hành vẫn còn những vướng mắc chưa được hướng dẫn chi tiết, như các vấn đề: Xử lý tài chính, đánh giá lại giá trị thị trường các tài sản có trong DN; đặc biệt là giá trị quyền sử dụng đất (đất thuê, giao), lợi thế kinh doanh; định lượng các quy định về khả năng sinh lợi của DN… Đáng chú ý, theo ông Nguyễn Ngọc Tuấn, phương pháp xác định giá đất áp dụng theo quy định tại Thông tư số 36/2014/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường có những chỗ không chuẩn xác, mâu thuẫn với hệ thống tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam do Bộ Tài chính ban hành, gây khó khăn cho việc xác định giá trị DN.
Cổ phần hóa có phải là "liều thuốc hữu hiệu"?
Theo TS Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, trong 15 năm qua, số lượng DNNN giảm mạnh, từ hơn 6.000 năm 2001 xuống còn 1.369 vào năm 2011 và năm 2016 chỉ còn khoảng 700. Tính toàn bộ quá trình từ cuối thập niên 1990 đến nay, cả nước đã sắp xếp 5.950 DNNN. Tuy vậy, thành tích đó không phản ánh đầy đủ và chân thực bức tranh cổ phần hóa nhìn từ góc độ tái cơ cấu nền kinh tế với mục tiêu chính là: Chuyển nguồn lực quốc gia từ khu vực sử dụng kém hiệu quả (DNNN) sang khu vực sử dụng hiệu quả (DN tư nhân). 96,5% số DNNN được cổ phần hóa nhưng chỉ có 8% số vốn Nhà nước được bán cho khu vực tư nhân. Đây là nghịch lý đáng lo ngại và cần làm rõ của quá trình cổ phần hóa. TS Trần Đình Thiên cho rằng, như vậy là gần 100% DNNN đã được cổ phẩn hóa đúng tiến độ nhưng nguồn lực hầu như vẫn nguyên sở hữu Nhà nước, DN tư nhân vẫn đứng ngoài, mục đích thật sự của cổ phần hóa chưa đạt được.
Ở một góc nhìn khác, ông Brian McEnery, Chủ tịch ACCA toàn cầu cảnh báo rằng, kinh nghiệm quốc tế cho thấy, cổ phần hóa không nên được coi là giải pháp chữa trị thần kỳ cho DNNN hoạt động không hiệu quả. Việc đa dạng hóa sở hữu (về lý thuyết) giúp cải thiện việc ra quyết định của công ty, áp dụng các thực tiễn kinh doanh phù hợp hơn và bảo đảm nguồn vốn đa dạng hơn.
TS Hồ Đức Phớc cho rằng, Luật KTNN năm 2015 quy định: KTNN có chức năng đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị đối với việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. Với chức năng như vậy, KTNN khẳng định vai trò không thể thiếu trong việc kiểm tra, kiểm soát quá trình cổ phần hóa DNNN, trong đó đặc biệt là việc xác nhận, kết luận về giá trị DN trước khi cổ phần hóa một cách khách quan, minh bạch sẽ bảo đảm nguồn lực quốc gia không bị thất thoát cũng như quyền lợi của các bên liên quan.
Thứ trưởng Bộ Tài chính Trần Văn Hiếu thì cho rằng, trong giai đoạn 2017-2020, đối tượng cổ phần hóa tiếp tục được mở rộng tới các tập đoàn kinh tế, tổng công ty Nhà nước lớn, tình hình tài chính phức tạp mang tính chất đặc thù. Như vậy, càng đòi hỏi tiếp tục phải hoàn thiện cơ chế liên quan đến xác định giá trị DN cho phù hợp nhằm xử lý dứt điểm các tồn tại về tài chính trước khi xác định giá trị DN, tổ chức định giá sát với giá thị trường, hạn chế tối đa khả năng thất thoát vốn và tài sản Nhà nước.