Bà Phạm Thị Hương (sinh năm 1958, thường trú ở phường Bắc Sơn, TP Hải Dương),chuyên cho vay lãi ngày, dùng nhiều chiêu trò ma quái cho con nợ vay rồi ép các con nợ với lãi xuất khủng.
Biến đối tác làm ăn thành con nợ “thịt dần”!
Bà Đinh Bích Hợp trú ở thành phố Hải Dương và bà Hương là bạn bè thân thiết có làm ăn kinh doanh bất động sản(BĐS) với nhau. Từ 2008-2013, bà Hương có góp vốn 7,5 tỷ đồng để kinh doanh BĐS với bà Hợp, nếu bà Hợp kinh doanh có lãi thì chia lợi nhuận cho bà Hương, nếu không có lợi nhuận thì bà Hương tính lãi theo lãi suất ngân hàng. Thỏa thuận là vâỵ. Bất ngờ, ngày 27/1/2013, bà Hương tự tính lãi với bà Hợp, lãi mẹ đẻ lãi con thành 33 tỷ 127 triệu đồng. Bà Hương tự đánh máy giấy biên nợ 33 tỷ 127 triệu đồng và ép bà Hợp ký.
Đến ngày 26/3/2013, bà Hương lại tự đánh máy một giấy bán nhà nhượng đất của căn biệt thự cao cấp Đỉnh Long trên 2 lô đất: lô 120.19- 120.20 với số tiền 30 tỷ. Ngoài ra, bà Hương đưa cho bà Hợp 2 tỷ đồng nữa để ép lấy căn chung cư cao cấp trị giá 5 tỷ ở khu đô thị Nam Thang Long, Hà Nội (Ciputra). Căn chung cư này bà Hợp mua 6,7 tỷ trước đó. Đến ngày 28/3/2013, bà Hương có ra văn phòng công chứng Thành Đông - TP Hải Dương thảo một bản hợp đồng ủy quyền để thay mặt bà Hợp được toàn quyền quản lý, sử dụng, chuyển nhượng, thế chấp, cho thuê quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất (nếu có) của hai thửa đất nêu trên theo quy định của pháp luật.
|
Bà Phạm Thị Hương tại phiên tòa sơ thẩm. |
Lợi dụng cái ủy quyền này, đến ngày 29/6/2013, bà Hương bán căn nhà giá trị 30 tỷ đồng ở phố Đỉnh Long, TP.Hải Dương cho anh trai bà là Phạm Phùng Long với số tiền là 17 tỷ. Sau đó, bà Hương ra làm thế chấp hai bìa đỏ này cho ông Phạm Phùng Long. Đến ngày 23/7, bà hương nhận nhà và mượn luôn cả đồ đạc và các tài sản gia dụng trong căn nhà của bà Hợp.
Ngay sau đó, bà Hương bán căn hộ ở Ciputra Hà Nội cho người khác. Toàn bộ giấy tờ đều do bà Hương tự tính lãi và đánh máy ép bà Hợp ký. Chưa dừng lại, bà Hương còn tiếp tục làm trò để lấy tiền bà Hợp, có những tháng bà Hương tính bà Hợp gần 1 tỷ tiền lãi. Bà Hương đã giữ tất cả giấy chốt nợ với bà Hợp và không đưa cho bà Hợp giữ bản nào.
Không dừng lại việc chiếm hữa 2 ngôi nhà của bà Hợp. Đến ngày 30/9/2013, bà Hương tiếp tục thủ đoạn, làm đơn đến văn phòng công chứng Thành Đông, phòng Công chứng số 1 và phòng Tài nguyên Môi trường TP. Hải Dương, Sở Tư pháp, Chi cục THADS TP. Hải Dương, TAND TP Hải Dương để ngăn chặn tài sản của bà Hợp, để gây khó khăn cho bà Hợp không được giao dịch, kinh doanh.
Trong nội dung đơn bà Hương nêu “Tôi có cho chị Đinh Bích Hợp vay tiền để kinh doanh đất và xây nhà. Tôi đã nhiều lần đòi nợ, nhưng chị Hợp không tự nguyện trả (tôi xin gửi kèm giấy nhận nợ của chị Đinh Bích Hợp). Nên buộc tôi phải làm đơn ra tòa để đòi lại số tiền đã cho chị Hợp vay. Tôi nhận thấy chị Hợp đang có dấu hiệu tẩu tán tài sản để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ. Vậy tôi làm đơn này kính mong cơ quan không thực hiện các thủ tục giao dịch vay nợ hoặc chuyển nhượng tài sản mang tên Đinh Bích Hợp và Lương Đức Thái để giúp tôi ngăn chặn việc tẩu tán tài sản của chị Hợp”.
Đường cùng đi tìm công lý…
Việc bà Hương đã lấy hết tài sản, không trả giấy chốt nợ cho bà Hợp, bà Hương lại cầm các giấy chốt nợ để đi đòi bà Hợp lần nữa. Bà Hợp không còn con đường nào khác, nên bà Hợp đã làm đơn tố cáo bà Hương đến công an tỉnh Hải Dương về việc bà Hương chiếm đoạt tài sản. Biết được thế đi của con nợ, bà Hương làm đơn khởi kiện bà Hợp ra tòa án dân sự để “Đề nghị hủy hợp đồng chuyển nhượng nhà đất, hủy hợp đồng ủy quyền và hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, đòi tài sản cho mượn...”.
Sau khi bà Hương gửi đơn, Tòa án nhân dân TP. Hải Dương chấp nhận đơn khởi kiện của bà Hương. Đến ngày 2/4/2014, TAND TP.Hải Dương đưa vụ án ra xét xử: tuyên bố hợp đồng ủy quyền ngày 28/3/2013 giữa bà Đinh bích Hợp, ông Lương Đức Thái với bà Phạm thị Hương vô hiệu. - Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Hương: buộc vợ chồng bà Đinh Bích Hợp, ông Lương Đức Thái trả cho bà Hương số tiền là: tiền gốc 7.500.000.000 và tiền lãi 2.509.479 đồng. Tổng là 10.009.405.500đồng (làm tròn).
Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Phạm thị Hương về việc đòi bà Đinh Bích Hợp, ông Lương Đức Thái trả số tiền là 30.000.000.000 đồng -10.009.405.500 đồng = 19.990.594.500đ. (làm tròn). Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 15 và 16/4/2014, bà Hương kháng cáo toàn bộ bản án và đề nghị hủy bản án sơ thẩm do vi phạm nghiêm trọng tố tụng. Ngày 15/4/2014 bà Hợp kháng cáo không đồng ý với quyết định của bản án sơ thẩm bác 2 tỷ đồng bà đã trả cho bà Hương và 3 tỷ đồng chưa tính trừ số tiền bà Hợp bán nhà cho bà Hương tại Hà Nội căn hộ Ciputra.
Đến ngày 15/9/2014, TAND tỉnh Hải Dương đưa vụ án ra xét xử phức thẩm đã quyết định hủy bản án sơ thẩm dân sự số 03 ngày 2/4/2014 của TAND TP. Hải Dương, giao TAND TP. Hải Dương giải quyết lại theo thủ tục chung.
Ngày 21/2/2017, TAND TP.Hải Dương đưa ra xét xử: Chấp nhận sự thoả thuận của bà Phạm Thị hương và vợ chồng bà Đình Bích Hợp, ông Lương Đức thái về việc: hủy hợp đồng cuyển nhượng nhà, đất tại thửa đất lô 120.19 tờ bản đồ QH01 diện tích 194,96m2 và thửa đất số 120.20, tờ bản đồ QHCQ-01 diện tích 247,82m2 địa chỉ khu đô thị phía tây (khu biệt thự Đỉnh Long)- nay thuộc phường Tân Bình, TP. Hải Dương.
Buộc bà Phạm Thị Hương trả lại cho vợ chồng bà Đinh Bích Hợp, ông Lương Đức Thái toàn bộ nhà, đất tại thưủa đất lô 120.19 tờ bản đồ QH01 diện tích 194,96m2 và thửa đất số 120.20, tờ bản đồ QHCQ-01 diện tích 247,82m2 địa chỉ khu đô thị phía tây (khu biệt thự Đỉnh Long), nay thuộc phường Tân Bình, TP. Hải Dương và các tài sản, cây cối gắn liền với đất, cây cối trên chậu cùng toàn bộ tài sản đã mượn theo phần kê khai cụ thể tại phụ lục thẩm định giá công trình kiến trúc trên đất tại chứng thư thẩm định giá của Công ty Cổ phần thẩm định giá VCHP vào tháng 9/2016 (bà Hương, bà hợp đã được nhận mỗi người một bản). Kèm theo bản án là bản photo phụ lục chứng thư trên đã liệt kê toàn bộ tài sản trong đó, tại mục II của phụ lục số thứ tự từ 1 đến 26 và số thứ tự số 36 là tài sản bà Hương mượn của bà Hợp, từ số thứ tự 27 đến 43 (trừ số TT36) là các tài sản gắn liền với nhà và đất.
Bà Hương có trách nhiệm tự tháo dỡ hệ thống camera và 1 của cuốn, 01 máy điều hòa, cùng đồ dùng sinh hoạt của bà đã mang đến trong thời gian quản lý sử dụng nhà đất trên vừa qua để trả lại nhà, đất cho vợ chồng bà Hợp, ông Thái.
Hủy giấy bán nhà đất giữa bà Phạm Thị Hương với ông Phạm Phùng Long đối với ngôi nhà biệt thự trên 2 thửa đất 120.19 + 120.20 Đỉnh Long mang tên đinh Bích Hợp, ông Lương Đức Thái ghi ngày 29/3/2013.
Ngoài ra, buộc vợ chồng ông Phạm Phùng Long, bà Lê Thị Hà trả lại cho vợ chồng bà Hợp ông Thái, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất lô 120.19, tờ bản đồ QH01 diện tích 194,96m2 do UBND thành phố Hải Dương cấp ngày 12/12/2011 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất lô 120.20, tờ bản đồ QH01 diện tích 247,82m2 do UBND thành phố Hải Dương cấp ngày 2/10/2009, địa chỉ tại khu đô thị phía Tây (khu biệt thự Đỉnh Long)- nay thuộc phường Tân Bình, TP. Hải dương.
Tuyên bố hợp đồng ủy quyền giữa bà Đinh Bích Hợp, ông Lương Đức Thái với bà Phạm Thị Hương tại văn phòng công chứng Thành Đông ngày 28/3/2013 vô hiệu.
Không chấp nhận bản án trên. Bà Hương kháng cáo lên TAND tỉnh Hải Dương. Sau đó, bà Hợp, ông Thái cũng kháng cáo để đòi lại bà Hương 3 tỷ căn hộ Ciputra mà bà Hương chưa trả bà Hợp. Đến ngày 10/7, TAND tỉnh Hải Dương đưa ra xét xử, bà Hương là nguyên đơn ủy quyền cho luật sư Nguyễn Kiều Đông làm đơn xin hoãn. Tòa lại quyết định ngày 18/7 đưa ra xét xử thì ông Phạm Phùng Long, người có nghĩa vụ liên quan lại xin hoãn.
Mạc dù bà Phạm Thị Hương là nguyên đơn trong vụ án nhưng trong các đợt xử bà Hương liên tục vắng mặt, ủy quyền cho luật sư, và cố tình trì hoãn, kéo dài thời gian làm khó cho bị đơn cho bị đơn.
Mặc dù vụ án đã đưa ra xét xử từ tháng 4/2014 và kéo dài đến nay đã hơn 3 năm mà chưa có hồi kết thúc, khiến cho phía bị đơn mệt mỏi và thiệt hại nặng nề về kinh tế… Mong rằng TAND tỉnh Hải Dương sớm đưa vụ án ra xét xử để trả lại công bằng cho các bên và làm tăng long tin của người dân nơi chốn công đường.