Ông Trọng chia sẻ, hơn 3 năm qua với 3 lần xét xử sơ thẩm và phúc thẩm, vụ án đã làm đảo lộn cuộc sống của gia đình ông.
Từ một tranh chấp hợp đồng vay tài sản giữa 2 người khác mà ông Nguyễn Anh Trọng (ảnh, SN 1947, thương binh hạng 3/4, nguyên Chủ tịch HĐQT Cty CP thương mại Bình Lục – Cty Bình Lục) bị TAND tỉnh Hà Nam tuyên phạt 7 năm 6 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
|
Ông Nguyễn Anh Trọng. |
Bị cáo tố cáo Cơ quan tố tụng tỉnh Hà Nam có dấu hiệu hình sự hóa quan hệ dân sự khiến doanh nghiệp của ông phải dừng hoạt động và bản thân ông vướng vòng lao lý oan sai. Theo trình bày của ông Trọng, Cty Bình Lục (100% vốn tư nhân, sau đây gọi tắt là Cty) do ông làm Chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc được UBND huyện Bình Lục chấp thuận và phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng khách sạn và dịch vụ ăn uống năm 2007.
Đầu năm 2011, Cty tiến hành họp Đại hội cổ đông để huy động các cổ đông tham gia đóng góp triển khai Dự án. Ban đầu có 6 cổ đông nhưng sau đó 5 cổ đông xin rút, chỉ còn duy nhất bà Trần Thị Bích Ngọc (SN 1971, ở Nam Định) là người đang trực tiếp nhận khoán kinh doanh khu nhà nghỉ, ăn uống trên.
Để có tiền nộp cho Cty Bình Lục, bà Ngọc đã hỏi vay 1,3 tỷ đồng của ông Nguyễn Văn Xương (SN 1945, ở Hòa Bình). Ông Xương đồng ý và gửi tiền ở nhà em họ Đỗ Xuân Ảnh. Biết Dự án có thật, sáng 16/5/2011, ông Xương nhờ ông Ảnh chuyển 1,3 tỷ đồng từ Agribank Chi nhánh Xuân Mai sang cho ông Trần Thế Phụng (là bạn của bà Ngọc) tại Agribank Chi nhánh Bình Lục.
Theo sao kê tại Agribank Chi nhánh Xuân Mai thì thời gian ông Ảnh chuyển tiền thành công vào hồi 8 giờ 8 phút ngày 16/5/2011 và ông Phụng đã nhận được tiền tại Chi nhánh Bình Lục vào hồi 8 giờ 23 phút 12 giây cùng ngày. Sau khi vay được tiền, bà Ngọc đến Cty Bình Lục nộp 1,2 tỷ đồng để mua thanh lý tài sản cũng trong ngày 16/5/2011.
Ông Trọng giao cho ông Nguyễn Gia Lâm (Phó Giám đốc kiêm Trưởng phòng Tổ chức hành chính) soạn thảo Biên bản thanh lý tài sản số 15 với đại diện bên thanh lý là ông Trọng, ông Lâm và bên nhận thanh lý là bà Ngọc.
Việc ký kết Biên bản thanh lý tài sản, theo các bút lục ghi lời khai thì được thực hiện vào khoảng 16h30’ ngày 16/5/2011 - sau 8 giờ tính từ khi ông Ảnh chuyển tiền thành công. Do chậm trễ trong việc thanh toán nợ gốc và lãi của bà Ngọc, ông Xương gửi đơn đến Công an huyện Bình Lục và Công an tỉnh Hà Nam tố cáo bà Ngọc lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Ngày 23/8/2013, Cơ quan CSĐT Công an huyện Bình Lục đã có Kết luận điều tra số 50/KLĐT xác định: “Việc chị Trần Thị Bích Ngọc vay số tiền 1,3 tỷ đồng của ông Nguyễn Văn Xương vào ngày 16/5/2011 là ngay thẳng...Việc chị Ngọc vay tiền của ông Xương không có sự việc phạm tội”.
Theo đó, Cơ quan CSĐT Công an huyện Bình Lục đã ra Quyết định không khởi tố vụ án hình sự (Quyết định số 35) và thông báo để ông Xương biết. Thế nhưng, không hiểu lý do gì mà đến năm 2015, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Hà Nam lại ra Quyết định khởi tố bị can đối với ông Trọng vì cho rằng ông đã có hành vi “Chỉ đạo, tạo dựng và ký Biên bản thanh lý tài sản số 15 ngày 16/5/2011 giả để Ngọc vay chiếm đoạt số tiền 1,3 tỷ của ông Xương….”, đồng thời ra lệnh bắt tạm giam, khám xét chỗ ở, chỗ làm việc của ông.
Tại phiên tòa sơ thẩm lần 2, TAND tỉnh Hà Nam tuyên phạt ông Trọng 7 năm 6 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (bản án sơ thẩm lần 1 tuyên 12 năm tù bị HĐXX phúc thẩm TAND Cấp cao tại Hà Nội tuyên hủy).
Suốt quá trình tố tụng từ khi khởi tố, bị bắt tạm giam và điều tra, truy tố, xét xử, ông Trọng liên tục kêu oan và đề nghị các cơ quan tố tụng xem xét đảm bảo sự thật khách quan của vụ án nhưng vẫn không được giải quyết.
Ông Trọng nêu ý kiến, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Hà Nam xác định ông có hành vi chỉ đạo, tạo dựng và ký Biên bản thanh lý số 15 giả để bà Ngọc vay chiếm đoạt tiền của ông Xương, nhưng vào thời điểm các bên chuyển và nhận tiền chưa lập Biên bản thanh lý, vậy tại sao được coi đó là cơ sở tạo niềm tin để ông Xương cho vay tiền? Bị cáo trong vụ án cũng phản ánh các cơ quan tố tụng tại Hà Nam có dấu hiệu tạo dựng chứng cứ để gán tội cho ông và bà Ngọc.
Cụ thể, chữ ký và chữ viết của ông Xương rất khác nhau được thể hiện trong những tài liệu làm căn cứ buộc tội như Đơn tố cáo ngày 3/7/2013 của ông Xương, Di chúc ngày 17/12/2013 của ông Xương, Giấy biên nhận tiền ngày 16/5/2011, Biên bản ghi lời khai của ông Xương ngày 17/8/2013.
Luật sư bào chữa cho ông Trọng đã nhiều lần kiến nghị giám định chữ ký và chữ viết của ông Xương để xác định sự thật của những tài liệu này, qua đó đánh giá tài liệu một cách chính xác các chứng cứ của vụ án nhưng không được chấp nhận.
Ông Trọng chia sẻ, hơn 3 năm qua với 3 lần xét xử sơ thẩm và phúc thẩm, vụ án đã làm đảo lộn cuộc sống của gia đình ông. Do bị oan ức, ông bị căng thẳng dẫn đến mất ngủ triền miên, vết thương tái phát, cộng với bệnh viêm đại tràng và thoái hóa cột sống đã khiến ông suy sụp nặng nề.
Ngoài ra, hoạt động kinh doanh Cty bị ảnh hưởng rất nhiều từ khi xảy ra vụ án. Hiện ông chỉ có mong mỏi duy nhất là sự thật khách quan được làm sáng tỏ để ông được minh oan.