Nitơ, phôtpho - chúng là chất dinh dưỡng, do xử lý không đúng cách chúng sẽ gây tổn hại cho môi trường và sức khỏe con người,
|
Xử lý nitơ, phốt pho không đúng cách ảnh hưởng đến sức khỏe con người và môi trường. |
Xử lý Nitơ, Phốt pho đúng cách – vấn đề cấp bách
Nước và bùn đô thị chứa một lượng lớn chất dinh dưỡng ở dạng các hợp chất của Nitơ và Phốt pho, có thể gây ra các hiện tượng phú dưỡng trong nguồn tiếp nhận sông, hồ và nước biển ven bờ. Tốc độ tăng trưởng kinh tế và đô thị hóa nhanh chóng ở Việt Nam hiện nay cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường nước ngày càng trầm trọng, đặc biệt các thành phố lớn.
Mới đây, phát biểu tại Hà Nội, tại Hội thảo chuyên đề “Xử lý Nitơ, Phốt pho trong nước thải đô thị ở Việt Nam: Thách thức và giải pháp” PGS. TS Trần Thị Việt Nga – Khoa Kỹ thuật môi trường, Đại học Xây dựng cho hay: “Trong hơn hai thập kỷ qua, nhiều công trình xử lý nước thải (XLNT) đã được đầu tư xây dựng và đưa vào vận hành nhằm giải quyết vấn đề ô nhiễm cấp bách ở Việt Nam. Tuy nhiên, các công nghệ áp dụng phổ biến dựa trên quá trình sinh học truyền thống, chủ yếu nhằm loại bỏ các chất rắn không tan, chất hữu cơ và vi sinh vật trong nước thải mà thực tế các hệ thống xử lý không có công trình loại bỏ N, P nên trong nhiều trường hợp không đạt yêu cầu xả thải”.
|
Toàn cảnh hội thảo. |
Tính đến 11/2016, nước ta có 35 hệ thống XLNT tập trung, đang hoạt động với công suất thiết kế khoảng 850,000 m3/ngđ, chiếm 12 - 13% tổng lượng nước thải phát sinh. Khoảng 40 nhà máy XLNT đang được thiết kế/ xây dựng với tổng công suất 1,600,000 m3/ ngđ. 90% khu công nghiệp (190/210) đang vận hành hoặc đang xây dựng hệ thống XLNT. Phần lớn trong số 5,000 làng nghề trên cả nước chưa có trạm xử lý nước thải.
Với thực trạng trên của nước ta báo động về việc ô nhiễm môi trường nước ngày càng trầm trọng do nước thải công nghiệp và đô thị.
Hiện nay còn nhiều nhà máy sử dụng công nghệ xử lý nước thải chưa phù hợp như: Nhà máy XLNT Cần Thơ, nhà máy XLNT Cao Lãnh, nhà máy XLNT Hoa Cương, Sơn Trà , Phú Lộc (Đà Nẵng)…
Do vậy, tại hội thảo các nhà Khoa học khuyến cáo nên sử dụng công nghệ XLNT bằng phương pháp sinh học. Với chi phí đầu tư và xây dựng công trình xử lý N, P cao hơn công trình XLNT truyền thống,, nhưng hiệu quả lại gấp từ 1,5 – 3 lần. (theo IWA, 2013).
Tổng Giám đốc Công ty CP Đầu tư phát triển môi trường SFC Việt Nam, TS Nguyễn Phương Quý cho rằng, cần phải có bộ quy chuẩn Việt Nam cho các nhà máy xử lý nước thải đô thị tập trung, trong đó chú trọng quy định về xử lý các thành phần N và P. “Đặc thù nước thải đô thị của nước ta là thành phần N, P cao gây ra tình trạng phú dưỡng, dẫn đến hiện tượng tảo nở hoa, đe dọa sự tồn tại của thủy sinh vật. Nếu không sớm có biện pháp ứng phó cụ thể với nguy cơ này, môi trường nước, nhất là các hồ đô thị sẽ còn gặp nhiều rủi ro và ô nhiễm” – ông Quý nhấn mạnh.
|
Các nhà khoa học khuyến cáo nên xử lý Nitơ, phôtpho bằng phương pháp sinh học để có hiệu quả tốt hơn. |
Xử lý Nitơ trong nước thải có nhiều phương pháp, nhưng bằng phương pháp sinh học là ưu thế nhất.
Trong quá trình xử lý nước thải bằng phương pháp sinh học hiếu khí, nito amoni sẽ được chuyển hóa thành nitrit và nitrat nhờ các loại vi khuẩn Nitrosomnas và Nitrobacter.
Khi môi trường thiếu ôxy, các loại vi khuẩn khử nitray Denitrficans (dạng kỵ khí tùy tiện) sẽ tách ôxy của Nitrat(NO3–) và nitrit (NO2–) để ôxy hóa chất hữu cơ. Nito phân tử N2 tạo thành trong quá trình này sẽ thoát ra khỏi nước.