Tất cả các biên bản giao khoán do Ban quản lý Rừng phòng hộ (BQL RPH) tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu ký với người dân vào năm 2008 đều thể hiện đất được giao khoán là rừng. Thế nhưng, biên bản xác nhận của UBND xã Tân Phước, huyện Tân Thành, Bà Rịa Vũng Tàu (BR-VT) lại cho rằng, từ năm 2004 đến 2009, các hộ dân trực tiếp canh tác tại các thửa đất này bằng cách làm đùng nuôi tôm và sản xuất muối.
Đối chiếu với những hồ sơ mà phóng viên Pháp luật Plus đã thu thập được, có rất nhiều sự bất cập trong công tác quản lý, các biên bản xác nhận thực địa, biên bản giao khoán giữa Ban Quản lý Rừng phòng hộ (BQL RPH) tỉnh BR-VT với những cá nhân được giao khoán.
Cụ thể, ngày 27/11/2007, BQL RPH, UBND xã Tân Phước và bà Ngô Thị Ngọc (SN 1987, đăng ký thường trú tại số nhà 214/6 tổ 98 đường Quang Trung, phường 10, quận Gò Vấp, TP HCM) đã cùng ký biên bản giao khoán đất lâm nghiệp ngoài thực địa.
Theo đó, bà Ngọc đã được giao đất rừng có diện tích là 16,5ha. Đáng chú ý là tại mục 2 của biên bản có nội dung: “Diện tích rừng còn lại là 16,5ha, hiện trạng được ghi nhận như sau: Rừng trồng từ năm 1996 bằng nguồn vốn ngân sách, diện tích rừng là 16,5ha, mật độ 3300c/ha”.
|
Diện tích rừng được Ban Quản lý Rừng phòng hộ giao khoán cho những người "lạ" lại là ruộng muối của người dân. |
Tại biên bản giao khoán đất lâm nghiệp ngoài thực địa ngày 17/3/2008 giữa BQL RPH, UBND xã Phước Hòa và bà Trần Thị Tý (ngụ số 2 Đội Cấn, phường 8, TP Vũng Tàu, tỉnh BR-VT) được giao 4ha đất rừng trong đó diện tích rừng là 4ha và hiện trạng được ghi nhận là rừng đước trồng năm 1998.
Tiếp đó là hợp đồng giao khoán giữa BQL RPH Bà Rịa - Vũng Tàu với ông Nguyễn Ngọc Tuấn và ông Trần Nam Anh (đều ngụ tại TP HCM), biên bản giao nhận khoán đất nông nghiệp ngoài thực địa ngày ký ngày 16/5/2008, theo đó ông Tuấn được giao 5ha đất rừng còn ông Anh được giao diện tích là 10ha rừng.
Bên cạnh những biên bản giao khoán trên và một số những biên bản giao khoán khác giữa BQL RPH tỉnh BR-VT với nhiều cá nhân khác đều thể hiện rõ một điều trong biên bản rằng, đất được nhận giao khoán đều là đất rừng.
Tuy nhiên, theo văn bản xác nhận số 103/UBND (văn bản số 103) của UBND xã Tân Phước về việc có ý kiến liên quan đến việc canh tác đất của các hộ dân thuộc dự án KCN Phú Mỹ II mở rộng. Văn bản này nêu: “Phần đất các hộ dân có tên trên (bà Võ Thị Minh, ông Bùi Văn Riêm và bà Trịnh Thị Nam Phương – PV) canh tác bị thu hồi để xây dựng dự án KCN Phú Mỹ II mở rộng do các hộ dân canh tác từ thời xã Phước Hòa cũ. Trong quá trình canh tác, các hộ dân không hề xảy ra tranh chấp.
Tính từ thời điểm tác lập xã Tân Phước (năm 2004) đến năm 2009, các hộ dân trực tiếp canh tác như làm đùng và sản xuất muối trên khu đất bị thu hồi để xây dựng dự án KCN Phú Mỹ II mở rộng”.
Như vậy, theo xác nhận tại văn bản số 103, tại thời điểm BQL RPH, UBND xã Tân Phương và nhưng người “lạ” ký hợp đồng giao khoán và biên bản giao khoán đất lâm nghiệp ngoài thực địa, tất cả diện tích đất của các hộ dân có đất bị thu hồi đều đang được các hộ dân canh tác và không hề có tranh chấp với ai.
Thế nhưng, biên bản giao khoán giữa BQL RPH Bà Rịa – Vũng Tàu với những cá nhân được giao khoán vào thời gian năm 2007 và 2008 lại thể hiện rõ rằng diện tích được giao khoán hoàn toàn là đất rừng.
Vậy câu hỏi đặt ra là liệu những thông tin trong các văn bản giao khoán của BQL RPH có đúng sự thật không hay là một sự khai khống nhằm chiếm đoạt tiền đền bù dự án của các hộ dân?
Bên cạnh việc xác nhận diện tích đất bị thu hồi của các hộ dân đều là đất được canh tác quan nhiều năm và không có tranh chấp, UBND xã Tân Phước còn cho biết, các hộ được BQL RPH giao khoán gồm Nguyễn Thị Ngọc, Nguyễn Ngọc Tuấn và Trần Nam Anh không sinh sống tại địa phương nên xã không nắm rõ được lai lịch.
|
UBND xã Tân Phước xác nhận việc sử dụng đất của các hộ dân. |
Xác nhận với phóng viên Pháp luật Plus, những hộ dân bị thu hồi đất tại đây cho biết, trong suốt quá trình canh tác đất, họ chưa từng gặp mặt những người được cho là chủ đất được BQL RPH giao khoán rừng phòng hộ. Khi đất bị thu hồi mới “ngã ngửa” ra rằng đất của gia đình canh tác bấy lâu nay lại là đất của người khác.
Sự việc đã trải qua một thời gian dài, các hộ dân đã “gõ cửa” nhiều cơ quan chức năng khác nhau để tìm công lý. Thế nhưng cho đến nay, các hộ dân này vẫn đang thấp thỏm trong vô vọng, đất canh tác bấy lâu nay có nguy cơ mất trắng mà không hề có sự đền bù thỏa đáng nào từ phía cơ quan chức năng.
Hiên tại, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cùng với Thanh tra tỉnh, chính quyền địa phương tiến hành ra soát xác minh lại những thông tin mà Pháp luật Plus đã phản ánh nhưng hiện vẫn chưa thể có kết quả.
Đất canh tác bỗng dưng bị thu trắng? Như Pháp luật Plus đã thông tin, theo phản ánh của các hộ dân là bà Võ Thị Minh (ấp Tân Lộc, xã Tân Phước), ông Bùi Văn Riêm (ấp Phước Long, xã Tân Hòa), ông Ngô Trọng Hiếu (ấp Tân Lâp, xã Phước Hòa), bà Trần Nam Phương (ấp Tân Lộc, xã Tân Phước), cùng nhiều hộ khác có đất nằm trong quy hoạch dự án KCN Phú Mỹ II mở rộng. Đất của các hộ dân đều là đất canh tác sử dụng hợp pháp nhiều năm nay. Các hộ dân cung cho rằng trong quá trình sử dụng đất, người dân có thực hiện nghĩa vụ thuế với nhà nước, việc sử dụng đất được chính quyền địa phương công nhận. Thế nhưng, khi thu hồi đất của các hộ dân để giao cho Tổng Công ty Đầu tư phát triển đô thị KCN Việt Nam IDICO (chủ đầu tư dự án KCN Phú Mỹ II), chính quyền địa phương đã không ban hành quyết định thu hồi đất, không bồi thường thiệt hại về đất. Qua đó, quyền sở hữu đất của các hộ dân đã không được chính quyền địa phương xem xét. Tiếp đó, các phần đất của người dân bỗng được thông báo là đất của BQL RPH Bà Rịa – Vũng Tàu. Bất ngờ hơn, những phần đất này đã được BQL RPH ký hợp đồng giao khoán cho những người “lạ” mà người dân canh tác bao năm qua không hề hay biết. |
Pháp luật Plus sẽ tiếp tục thông tin tới bạn đọc.