Việc trả thưởng của bà Khanh và ông Quang cho luật sư Thịnh hoàn toàn không làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của các đồng thừa kế khác. Do đó, việc lấy ý kiến của 08 người con còn lại về việc trả thưởng ông Thịnh là không cần thiết.
Bên A tự giải quyết nếu có tranh chấp
Liên quan tới vụ việc luật sư Đặng Đình Thịnh (TP HCM) thắng kiện 55 tỷ đồng “hứa thưởng” nhưng bị bội ước, được dư luận đặc biệt quan tâm. Sau khi Phapluatplus.vn đăng tải bài “Kiến nghị bác bỏ kháng nghị của TAND Tối cao”, đã nhận được sự đồng thuận của đông đảo độc giả.
Diễn biến tiếp theo của vụ việc tiếp tục xoay quanh việc là tranh luận khi trả thưởng cho ông Thịnh thì cần lấy ý kiến đồng thuận từ những người con của bà Khanh hay không?
Về nội dung này, trong quyết định kháng nghị giám đốc thẩm có đoạn: “…trường hợp này cần hỏi ý kiến của 08 người con còn lại về việc đồng ý trả thưởng cho ông Thịnh như thế nào, từ đó mới đủ căn cứ giải quyết vụ án”.
Hội Luật gia Việt Nam cho rằng nhận định này là vô lý. Theo Hội luật gia Việt Nam, trong quá trình khiếu nại xin lại nhà, chỉ có bà Khanh ký đơn và 01 người con là ông Quang thi thoảng về Việt Nam. Những người con khác của bà Khanh không ký đơn, không về Việt Nam.
Mặt khác, trong các văn bản thỏa thuận hứa thưởng, ông Thịnh và bà Khanh đều có giao kết “Tranh chấp giữa bên A (bà Khanh, ông Quang) với các đồng thừa kế căn nhà nêu trên (nếu có) do bên A cam kết tự giải quyết và không ảnh hưởng đến nội dung của hợp đồng này”.
|
Luật sư Thịnh, người thắng vụ kiện hứa thưởng 55 tỷ đồng. |
Thực tế, bà Khanh và ông Quang là người ký thỏa thuận hứa thưởng với ông Thịnh và ủy quyền toàn bộ việc khiếu nại đòi nhà cho ông Thịnh. 08 người con khác không tham gia khiếu nại, không ký thỏa thuận hứa thưởng với ông Thịnh, do đó ông Thịnh không yêu cầu họ trả thưởng.
Về phía căn nhà 446-448 Nguyễn Thị Minh Khai sau khi Nhà nước trả lại thì thuộc quyền sở hữu chung của ông Kha và bà Khanh (ông Kha chết, có bà Khanh và 9 người con thừa kế). Theo quy định của pháp luật, bà Khanh được quyền sở hữu 50% căn nhà nêu trên và 01 phần thừa kế của ông Kha.
Theo đó, bà Khanh hứa trả thưởng cho ông Thịnh 35% trên tổng giá trị nhà và đất là nhỏ hơn phần nhà đất của bà Khanh được hưởng quyền sở hữu. Như vậy, việc trả thưởng của bà Khanh và ông Quang hoàn toàn không làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của các đồng thừa kế khác. Do đó, việc lấy ý kiến của 08 người con còn lại về việc trả thưởng ông Thịnh là không cần thiết.
Không cổ xúy cho hành vi bội ước, bội tín
Thực tế, trong quá trình giải quyết vụ án, các con bà Khanh cũng đã có ý kiến với Tòa về việc trả thưởng cho ông Thịnh, chỉ còn 03 người con do gia đình bà Khanh cũng không biết họ định cư ở đâu nên Tòa án không thể triệu tập họ. Vì không ảnh hưởng đến phần tài sản của những người vắng mặt nên tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm vẫn tiến hành xét xử là đúng quy định pháp luật.
Ngoài ra Hội luật gia Việt Nam nhận định đối với tranh chấp dân sự, pháp luật luôn hướng đến việc bảo vệ quyền lợi chân chính của công dân và hạn chế những việc làm mang tính chất bội tín, lật lọng trong xã hội.
Với vụ việc ông Thịnh làm giúp cho bà Khanh, ông Thịnh đã bỏ ra nhiều công sức, trí lực, chi phí để đem lại quyền lợi cho gia đình bà Khanh. Việc làm của ông Thịnh được xem như cách đầu tư mạo hiểm, nếu khiếu nại không thành công thì ông Thịnh sẽ tốn thời gian, công sức, chi phí.
Vì vậy việc ủng hộ ông Thịnh là thể hiện sự nhân văn và đúng quy định pháp luật. Pháp luật tố tụng dân sự quy định giám đốc thẩm hủy bản án chỉ khi phát hiện có sai lầm nghiêm trọng.
|
Căn nhà số 446- 448 Nguyễn Thị Minh Khai (quận 1). |
Do đó nếu có một vài sai sót nhỏ trong quá trình xét xử mà không làm thay đổi bản chất vụ án, thiết nghĩ không nên hủy án. Về mặt đạo đức, pháp luật cũng không nên cổ xúy cho những hành vi bội ước của mẹ con bà Khanh.
Căn nhà số 446- 448 Nguyễn Thị Minh Khai (quận 1) do vợ chồng ông Kha và bà Khanh đứng tên làm chủ. Sau đó, gia đình ông Kha ra nước ngoài định cư nên căn nhà này được nhà nước quản lý theo diện nhà vắng chủ.
Năm 2004, sau khi ông Kha qua đời, bà Khanh cùng ông Quang trở lại Việt Nam làm thủ tục xin được nhận lại căn nhà này. Ông Quang và bà Khanh thuê luật gia Đặng Đình Thịnh (Hội Luật gia Việt Nam) giúp đỡ về mặt pháp lý. Hai bên làm hợp đồng cam kết và phía bà Khanh có “hứa thưởng” cho ông Thịnh 35% giá trị căn nhà nếu đòi lại được.
Năm 2009, bà Khanh ủy quyền cho con trai là ông Quang làm thủ tục khai nhận di sản thừa kế, được quyền cho thuê, bán, tặng với căn nhà. Sau một thời gian xem xét, giữa năm 2011, Bộ Xây dựng và UBND TPHCM đồng loạt ra quyết định trả lại nhà cho bà Khanh. Sau khi có quyết định trả nhà, bà Khanh làm văn bản khai nhận di sản thừa kế và đã nộp lệ phí trước bạ chủ sở hữu nhà vào ngày 12/9/2011.
Sau khi lấy lại được nhà, bà Khanh cùng con trai đã thực hiện nhiều giao dịch mua bán, cho thuê với căn nhà nhưng không thực hiện hợp đồng “hứa thưởng” với ông Đặng Đình Thịnh.
Sau nhiều lần thương thảo không có kết quả, vị luật gia này đã làm đơn kiện lên TAND TPHCM yêu cầu mẹ con bà Khanh trả tiền “hứa thưởng” theo hợp đồng số tiền 145 tỷ đồng.
TAND TPHCM đã xét xử sơ thẩm, quyết định ông Quang và bà Khanh phải trả hơn 54 tỷ đồng tiền hứa thưởng cho luật gia Thịnh. Sau đó, TAND Cấp cao tại TP HCM xử phúc thẩm, buộc bà Khanh và ông Quang trả cho ông Thịnh gần 55 tỷ đồng hứa thưởng.
Hiểu về “hợp pháp hóa lãnh sự” Đối với các văn bản lập ở quốc gia này thực hiện ở quốc gia khác, Việt Nam phân ra 2 trường hợp để có quy định. Nếu lập ở Việt Nam thực hiện ở nước ngoài thì có thủ tục “chứng nhận lãnh sự”, trong đó cơ quan thẩm quyền Việt Nam chứng nhận con dấu, chữ ký và chức danh của viên chức ký trên văn bản là đúng sự thật, không giả mạo. Còn đối với văn bản lập ở nước ngoài thực hiện ở Việt Nam thì có thủ tục “hợp pháp hóa lãnh sự” trong đó cơ quan thẩm quyền của Việt Nam trú đóng ở nước sở tại chứng nhận con dấu, chữ ký và chức danh của viên chức ký trên văn bản là đúng sự thật, không giả mạo. Việc chứng nhận này chỉ chứng nhận con dấu, chữ ký và chức danh, không chứng nhận nội dung đó là đúng hay sai. Với thủ tục chứng nhận lãnh sự thì Nghị định 111/2011/NĐ-CP có liệt kê các trường hợp bắt buộc phải chứng nhận lãnh sự, nhưng với thủ tục hợp pháp hóa lãnh sự như trong vụ án này, thì theo Nghị định 111/2011/NĐ-CP không liệt kê cụ thể và không bắt buộc, Thông tư số 01/2012/TT-BNG của Bộ Ngoại giao cũng không nêu cụ thể. Mặt khác tại Điều 9 của Nghị định 111/2011/NĐ-CP có nêu những trường hợp không cần phải hợp pháp hóa lãnh sự trong đó Khoản 4 quy định rõ là “Giấy tờ, tài liệu mà cơ quan tiếp nhận của Việt Nam hoặc của nước ngoài không yêu cầu phải hợp pháp hóa lãnh sự, chứng nhận lãnh sự phù hợp với quy định pháp luật tương ứng của Việt Nam hoặc của nước ngoài”. |
Pháp luật Plus sẽ tiếp tục thông tin.