Trách nhiệm hình sự và đối tượng được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự?
Tất cả những hành vi vi phạm pháp luật đều phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, pháp luật cũng quy định một số trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự.
Người phụ nữ được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự do đang mang thai
Truy cứu trách nhiệm hình sự với hộ tàng trữ lô thuốc lá khủng tại Bình Dương
Pháp luật Việt Nam quy định, mọi công dân đều được hưởng các quyền lợi và thực hiện những nghĩa vụ của công dân theo các chế tài pháp lý được đặt ra. Các quy định về pháp lý được đặt ra nhằm giải quyết các mâu thuẫn giữa công dân và các chủ thể khác trong xã hội. Tất cả những hành vi vi phạm pháp luật đều phải chịu trách nhiệm hình sự và bị xử lý nghiêm khắc.

Hình minh họa.
Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lí của việc thực hiện hành vi phạm tội. Hậu quả này chỉ phát sinh khi có người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật hình sự cấm hoặc không thực hiện những nghĩa vụ mà pháp luật hình sự bắt buộc phải thực hiện.
Trách nhiệm hình sự được biểu hiện cụ thể ở việc người phạm tội phải chịu biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước là hình phạt – biện pháp tước bỏ hoặc hạn chế ở họ một số quyền hoặc lợi ích hợp pháp.
Trách nhiệm hình sự chỉ có thể được xác định bằng trình tự đặc biệt theo quy định của pháp luật mà các cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ phải thực hiện. Trách nhiệm hình sự phải được phản ánh trong bản án hay quyết định có hiệu lực pháp luật của toà án.
Tuy nhiên, pháp luật cũng quy định một số trường hợp công dân được miễn trách nhiệm hình sự.
Tại Điều 29 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định về căn cứ miễn trách nhiệm hình sự, như sau:
1. Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây:
a) Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
b) Khi có quyết định đại xá.
2. Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong các căn cứ sau đây:
a) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;
b) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa;
c) Người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận.
3. Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
Gửi bình luận