Chiều 28.8, Tổng hội Nông nghiệp Việt Nam đã tổ chức hội thảo để đưa ra cái nhìn khách quan về thuốc diệt cỏ. Lạm dụng thuốc diệt cỏ, sử dụng thuốc quá liều lượng khuyến cáo, sử dụng sai mục đích… là những nguyên nhân chính gây ảnh hưởng tới sức khỏe cộng đồng, thậm chí gây tử vong với con người.
|
Hoạt chất thuốc diệt cỏ glyphosate đang bị tạm ngừng đăng ký mới tại Việt Nam bởi những nghi vấn về tác hại tới sức khỏe con người. Ảnh: P.V |
Đặc biệt, khi một tòa án tại Mỹ xử yêu cầu một doanh nghiệp phải bồi thường cho một công dân và cho rằng, thuốc diệt cỏ glyphosate là nguyên nhân gây ung thư cho người này đã khiến ngành bảo vệ thực vật không khỏi “giật mình”. Tại Việt Nam, thuốc diệt cỏ đang được nông dân lạm dụng, gây hại như thế nào?
TDC bị sử dụng quá liều lượng, sai mục đích
Theo Tổng Hội Nông nghiệp Việt Nam, hiện tại, trong danh mục TDC gồm 234 hoạt chất, 713 tên thương phẩm tại Việt Nam. Những năm gần đây, lượng TDC được sử dụng trong sản xuất có xu hướng ngày càng tăng, khiến yêu cầu về việc cải thiện cơ chế quản lý và sử dụng hiệu quả và an toàn là rất quan trọng. Thách thức chính được nêu ra trong hội thảo đó là việc lạm dụng TDC, sử dụng thuốc quá liều lượng khuyến cáo, sử dụng sai mục đích, đặc biệt là trình độ nhận thức, hiểu biết và trách nhiệm xã hội của người sử dụng TDC tại Việt Nam còn hạn chế là những nguyên nhân chính gây ra một số ảnh hưởng không mong muốn tới sức khỏe cộng đồng và môi trường trong thời gian gần đây. ThS Nguyễn Văn Hưng - Chuyên viên cao cấp Vụ nông nghiệp-Văn phòng Chính phủ - cũng cho rằng: Bên cạnh những tích cực với sự phát triển sản xuất NN trên thế giới, TDC cũng mang lại hệ lụy xấu, đặc biệt trong vòng 20 năm trở lại đây.
Phát biểu tại hội nghị, PGS-TS Nguyễn Xuân Hồng - nguyên Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật (BVTV) nêu ý kiến: “Khó khăn thách thức lớn nhất là TDC được sản xuất manh mún, số lượng người sử dụng, tiếp xúc trực tiếp với TDC nhiều. Hiểu biết kỹ thuật, nhận thức về trách nhiệm của TDC còn hạn chế. Thói quen dựa vào thuốc hóa học, thiếu quan tâm đến các biện pháp thân thiện môi trường. Trong khi đó, số lượng cửa hàng và người buôn bán thuốc quá nhiều, điều kiện kinh doanh còn lỏng lẻo, lực lượng thanh tra mỏng, chế tài xử phạt chưa đủ răn đe là những yếu tố khiến việc kiểm soát TDC gặp nhiều khó khăn” - PGS-TS Nguyễn Xuân Hồng nhấn mạnh.
TDC không gây hại nếu sử dụng đúng
Phát biểu tại hội nghị, PGS- TS Nguyễn Văn Tuất - Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam - nêu ý kiến: Người dân ngày càng lo ngại về các tác dụng phụ của TDC đối với sức khỏe của chính mình và ý thức hơn về vấn đề môi trường. Chính vì vậy, TDC thế hệ cũ đang được thay thế rất nhanh bằng các hóa chất mới tiên tiến hơn; nhu cầu về TDC đang dần được giảm thiểu bằng cách sử dụng các biện pháp kiểm soát thay thế và thay đổi. “Chỉ sử dụng TDC khi thật cần thiết và lựa chọn những thuốc có nguồn gốc, thời hạn sử dụng rõ ràng, hiệu lực phù hợp với từng đối tượng, từng bước tiến dẫn đến sử dụng TDC sinh học được chiết xuất từ cây cỏ, thảo dược. Sử dụng các biện pháp khác như che phủ mặt luống. Bên cạnh đó, việc bón phân cân đối, vừa đủ sẽ hạn chế lượng phân bón dư thừa, cắt nguồn dinh dưỡng của cỏ dại” - PGS-TS Nguyễn Văn Tuất nhấn mạnh.
ThS Nguyễn Văn Hưng tỏ ra lo ngại khi trong 5 năm trở lại đây, xu hướng ngộ độc TDC đang có chiều hướng gia tăng, trung bình từ 20-40 ca/năm; đặc biệt trong năm 2017 số ca ngộ độc TDC đã tăng vọt. Vì vậy, cần đặc biệt chặn các thuốc BVTV ngoài danh mục, đặc biệt là TDC có chứa paraquad, 2,4D. Để kiểm soát vấn đề sử dụng TDC, Ths Nguyễn Văn Hưng đề nghị ngành NN cần sớm xây dựng chiến lược sử dụng thuốc BVTT trong 10-15 năm tới theo định hướng: Giảm nguy cơ, giảm thiểu sử dụng thuốc BVTV, đảm bảo an toàn trong sử dụng; nâng cao nhận thức, trách nhiệm xã hội của người sử dụng thuốc BVTV…
Đặc biệt, cần hạn chế số lượng hoạt chất trong danh mục, rất hạn chế các loại hoạt chất hỗn hợp, hạn chế số tên sản phẩm cho 1 hoạt chất; hạn chế đăng ký sản phẩm mới cũng như nhập khẩu thuốc BVTV; hạn chế đăng ký sản phẩm thuộc nhóm độc I, II có thời gian cách ly dài, có độc tính cao với ký thiên địch và cá; thực hiện nguyên tắc “có vào có ra danh mục” để định kỳ sàng lọc sản phẩm… “Cần giảm thiểu lượng thuốc BVTV hằng năm khoảng 30-40% đặc biệt trên rau, lúa, chè, quả, vùng nông sản xuất khẩu; nâng tỉ lệ thuốc sinh học, thuốc có độc tính thấp (nhóm 4,5-PV), thuốc thân thiện với môi trường lên 40-60%” - ThS Nguyễn Văn Hưng nêu ý kiến.