Những ngày cuối tháng chạp, tìm đến đường Nguyễn Duy Cung, những chuyến xe đang tấp nập chuyển lư hương đi các tỉnh phục vụ nhu cầu trưng Tết của người dân.
|
Ảnh minh họa. |
Xưa 40 lò, nay đếm ngón tay
Gần 12h trưa nhưng gần 20 công nhân của xưởng đúc đồng Năm Toàn vẫn miệt mài làm việc. Mỗi người một công đoạn, người nhào đất, người nặn khuôn, người mài, người hàn…
Hỏi thăm chủ xưởng, anh công nhân hàn chỉ về phía người đàn ông tóc muối tiêu đang cặm cụi chạm khắc hoa văn trên những chiếc lư thành phẩm.
Ông chủ xưởng Trần Minh Toàn (SN 1960) tâm sự: “Đêm qua đổ khuôn nên anh em thợ phải thức tới sáng. Mệt, nhưng sáng nay mọi người vẫn đến làm vì nghề này cả năm chỉ trông chờ vào dịp Tết là chính. Ai cũng căng sức làm gấp đôi gấp ba ngày thường”.
Là làng nghề duy nhất còn tồn tại ở Sài Gòn, nhưng An Hội lại không phải là cái nôi của nghề đúc lư đồng ở thành phố lớn nhất cả nước.
Nhắc đến lịch sử của làng lư đồng, ông Toàn kể dòng họ ông từ miền Trung di cư. Từ vùng quê vào nơi phồn hoa đô hội không biết làm gì để sống, tổ tiên ông đã sang khu Chợ Lớn (quận 5) làm thuê và học được nghề đúc lư đồng.
Cụ về mở lò, truyền nghề cho các con cháu trong dòng họ. Thời hoàng kim, làng đúc đồng ở An Hội có hơn 40 lò luôn đỏ lửa. Lư đồng An Hội có mặt khắp Nam Kỳ lục tỉnh, thậm chí xuất khẩu cả sang Lào, Campuchia, Malaysia….
Sau này kỹ thuật phát triển, nhiều xưởng, công ty đúc đồng công nghiệp ra đời, sản xuất ra số lượng lớn, mẫu mã đa dạng, giá thành lại hạ, nên làng nghề đúc lư đồng thủ công ngày càng mai một.
Gia đình có năm anh em nhưng chỉ có mình ông Toàn là nối nghiệp cha, ông nội truyền lại. Đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt, lư đồng An Hội gặp rất nhiều khó khăn.
“Giá trung bình một bộ khoảng hai triệu nhưng nhiều công, nhiều chi phí. Tiền nguyên liệu lại liên tục tăng nếu trước đây chỉ khoảng vài chục ngàn 1kg đồng thì nay đã lên tới hơn 100 ngàn, giá đất sét tăng từ 1,2 triệu đồng lên 1,5 triệu đồng/một xe sáu khối… Nên nghề đúc đồng chủ yếu là lấy công làm lãi”, ông chủ xưởng chia sẻ.
Ông lại thở dài: “Những tháng bán chậm, nhưng lò vẫn phải duy trì để công nhân có việc làm có thu nhập. Lương hiện chỉ được 4 - 6 triệu/tháng tùy từng công đoạn, nghề lại vất vả nên nhiều thợ bỏ đi làm phụ hồ hoặc chạy xe ôm, thu nhập cũng vậy mà công việc đỡ gò bó hơn. Những người còn lại gắn bó với nghề hiện chủ yếu là thợ lâu năm yêu nghề không nỡ bỏ”.
Ngày nay nhắc đến lư đồng An Hội, số hộ gia đình chỉ còn năm xưởng: Ba Cồ, Hai Thắng, Quốc Kiểng, Anh Thoại, Năm Toàn, đều là anh em bà con trong dòng họ.
Quanh năm tay miết bùn đất
Gạt đi những nỗi niềm, chủ xưởng đưa đục chạm khắc những họa tiết trên chiếc lư đồng, chia sẻ: Để có một cặp lư đồng gồm một đế lư, một thùng lưu, hai quả đào, một nắp và một lân ở phía trên thì người thợ phải trải qua nhiều công đoạn như làm khuôn sáp, đổ đồng, móc đồng, làm nguội, hàn các chi tiết trang trí, chạm chổ, mãi giũa, đánh bóng…
Đi vòng quanh hơn 500m2 xưởng, quan sát gần mấy chục công nhân làm việc, mỗi người làm một công đoạn khác nhau. Khuôn đất gồm ba lớp, ở giữa là một lớp sáp, hai lớp đất bao bọc hai bên.
Sáp được trộn từ sáp ong và sáp đèn cầy. Đất được chọn làm khuôn là thứ đất được lấy từ Thuận An (Bình Dương) hoặc Đồng Nai, đất sét ở những vùng này dẻo, mịn để khi đề mặt lư không bị rỗ. Đất được xay nhuyễn, trộn tro, trấu hỗn hợp trên tiếp tục được xay nhuyễn lần thứ hai.
Trước khi cho khuôn vào lò người thợ phải vảy thêm lớp đất sét cho bề mặt chiếc lư thêm sáng bóng. Công đoạn đắp khuôn đất được xem là công việc nhẹ nhàng nhất nên thường được ưu tiên dành cho phụ nữ.
Bà Nguyễn Thị Hải (56 tuổi) bàn tay mềm mại cuộn từng miếng đất đắt lên lớp ngoài chiếc khuôn sáp, tâm sự: “So với các công đoạn khác thì đắp khuôn đất nhẹ nhàng nhất.
Tuy nhiên nếu không quen ngồi còng lưng suốt 8 - 10 tiếng một ngày cũng rất mệt. Nông dân chỉ có vụ cấy vụ gặt mới phải ngâm bùn, còn thợ ở đây bàn tay quanh năm miết bùn, miết đất nên móng tay chẳng dài ra được, da tay xấu hơn cả những người những người làm ruộng.
Nhưng gắn bó bao nhiêu năm rồi, đâm “nghiện” mùi bùn đất, nghỉ Tết vài ba ngày là nhớ xưởng”. Khâu vất vả nhất là khâu nấu đồng đổ vào khuôn, khâu này dành cho những người đàn ông có sức khỏe tốt và có thâm niên trong nghề.
Ở công đoạn này người thợ phải tiếp xúc với nhiệt độ cao, biết ước chừng sao cho đồng vừa chín tới. Khi rót phải rót từ từ nhưng liên tục, nếu bị lẫn không khí nổi bọt khiến đồng sẽ bị rỗng, rỗ, buộc phải đập bỏ nấu lại.
Sau khi đồng nguội trở về dạng rắn, người ta đập bỏ khuôn đất, xả cát bên trong để chiếc lư có đường cong cơ bản.
Gắng bám trụ, hay đập xưởng xây nhà cho thuê?
Ông Năm Toàn chia sẻ: “Phải trải qua hơn 10 khâu thì mới tạo ra được một chiếc lư hoàn chỉnh. Mỗi khâu đều có độ khó riêng. Nếu khâu tạo khuôn cần sự tỉ mỉ, khéo léo; thì khâu đổ đồng lại cần kinh nghiệm cũng như kỹ thuật trong thao tác đổ. Nhưng theo tôi, khâu khó nhất là khâu chạm trổ”.
Đây chính là đặc điểm khác biệt của lư đồng làm thủ công và công nghiệp. Nếu chiếc lư đồng công nghiệp vừa ra lò, hầu hết các hoa văn đều là hoa văn nổi có sẵn kiểu “trăm cái như một”, thì lư đồng thủ công mỗi chiếc có thể mang một kiểu hoa văn riêng tùy vào yêu cầu của gia chủ.
Các nét chạm trổ phải tinh xảo mềm mại và độ khó phức tạp của các hoa văn sẽ tạo nên sản phẩm độc đáo riêng biệt, thể hiện sự tài hoa của mỗi người thợ.
Một đặc điểm đặc biệt nữa khiến những chiếc lư đồng thủ công vẫn được nhiều người ưu chuộng, là nếu hầu hết lư công nghiệp được đúc thành từng mảnh sau đó bắt vít lại, thì lư thủ công là một khối thống nhất, nhìn rất chắc chắn và uy nghiêm.
Chẳng thế mà dù hiện nay trên thị trường rất nhiều nơi sản xuất được lư đồng, đa dạng về mẫu mã, giá cả cũng khác nhau, nhiều người khách khó tính vẫn tìm đến An Hội gửi mẫu đặt hàng.
Ông Toàn cho biết, một bộ lư bình thường có giá từ 2-5 triệu, những bộ lư phức tạp thì có giá cả hơn chục triệu là chuyện bình thường.
Nguồn khách thường xuyên của các xưởng là các đại lý các tỉnh, mỗi tháng mỗi xưởng xuất từ 300 - 400 bộ lư đi các tỉnh. Đến tết thì số lượng có thể gấp đôi hoặc gấp ba, lúc này thợ mới phải làm hết mình cho kịp tiến độ.
Người đàn ông trải lòng trước lúc tiễn khách: “Dù cố gắng bám trụ vẫn sống được với nghề, nhưng nếu tính như hiện nay “tấc đất tấc vàng”, thì các xưởng cho thuê mặt bằng, hoặc xây phòng trọ cho sinh viên, công nhân thuê có thể kiếm được nhiều tiền hơn. Biết là vậy nhưng nghề cha ông để lại truyền từ đời này qua đời khác, không nỡ bỏ. Gia đình năm anh em chỉ có mình tôi theo nghề”.