Trong vụ kỳ án “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” xảy ra tại Lạng Sơn này, Công ty CP Vật tư Nông nghiệp (gọi tắt là Cty Vật tư) Lạng Sơn được xác định là bị hại. Thế nhưng, điều hết sức “kỳ quặc” và khó hiểu là: các chứng từ của công ty để chứng minh thiệt hại lại không có trong hồ sơ vụ án. Chứng cứ thiếu, không đủ căn cứ chứng minh tội phạm nhưng HĐXX cấp sơ thẩm vẫn tuyên án?!
Xét xử người chưa bị khởi tố
Mới nghe tưởng nói đùa nhưng đây là sự thật. Cụ thể, theo CMND số 080962761 cấp ngày 14/11/2011 của CA Tỉnh Lạng Sơn, người có tên Hoàng Trung Tuyến (hiện là bị cáo trong vụ án – PV) là người dân tộc Tày. Điều này cũng trùng với sổ hộ khẩu số HK6-338. Ngoài ra, tại sổ hộ khẩu nói trên, nơi thường trú của Tuyến là: Điềm He 2, Văn An, Văn Quan, Lạng Sơn.
Thế nhưng tại quyết định số 150 ngày 21/9/2016, người mà Cơ quan CSĐT CA Tỉnh Lạng Sơn khởi tố bị can lại là Hoàng Trung Tuyến – dân tộc Nùng, thường trú: thôn Điềm He, xã Văn An, huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn. Lệnh bắt bị can để tạm giam số 24 (ngày 21/9/2016); lệnh khám xét số 11 (21/9/2016); Quyết định phê chuẩn lệnh khám xét số 11 (22/9/2016) của Viện KSND Tỉnh Lạng Sơn… cũng đều ghi Hoàng Trung Tuyến – dân tộc Nùng.
Căn cứ vào danh mục các dân tộc Việt Nam (Ban hành theo Quyết định số 121-TCTK/PPCĐ ngày 2/3/1979) thì dân tộc Tày có mã dân tộc là 02, trong khi dân tộc Nùng có mã dân tộc là 07. Như vậy, có thể khẳng định, Tày và Nùng là 2 dân tộc khác nhau.
Đối chiếu với hồ sơ vụ án thì rõ ràng, Hoàng Trung Tuyến – dân tộc Tày chưa bị khởi tố. Thế nhưng, người này vẫn bị cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Lạng Sơn bắt tạm giam để điều tra, truy tố, xét xử và bị HĐXX sơ thẩm tuyên phạt 14 năm tù giam.
|
Công ty CP Vật tư Nông nghiệp. |
Bình luận về sai phạm này, nhiều Luật sư cho rằng, việc làm của các cơ quan tố tụng trong trường hợp này là vi phạm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự, vi phạm các quy định của pháp luật về “Quyết định khởi tố vụ án hình sự”, “Khởi tố bị can”; “Những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự”, “Tạm giam” được quy định trong Bộ luật Tố tụng, xét xử không đúng người.
Liệu đã khách quan trong thu thập chứng cứ?
Quay trở lại nội dung vụ án.
Theo bản án số 71/2017/HSST thì bị cáo Tuyến có “trách nhiệm nhận hàng và xuất hàng (bán hàng) nhận tiền gửi về Cty Vật tư nhưng bị cáo đã không làm như vậy. Trong khoảng thời gian từ tháng 1/2016 đến 12/5/2016, bị cáo đã xuất 275,3 tấn phân bón các loại khỏi kho nhưng không báo cáo và không gửi tiền về Cty theo quy định của Cty Vật tư; đó chính là thủ đoạn gian dối của bị cáo để chiếm đoạt tài sản là 275,3 tấn phân bón các loại”.
Như vậy, có thể thấy, Tuyến chính là người bán hàng cho Cty Vật tư. Tài sản bị chiếm đoạt trong vụ án hình sự nhất quyết phải là 1 tài sản có thực chứ không phải là con số chỉ có trong “tưởng tượng”, “suy đoán” theo ý chí chủ quan.
|
CMT của Hoàng Trung Tuyến. |
Theo đó nếu cho rằng Cty (phía xuất hàng – PV) là bị hại, thì các cơ quan tiến hành tố tụng nhất định phải thu thập, đưa ra các chứng từ của Cty về số lượng phân bón đã giao cho Tuyến (cụ thể đó là các phiếu xuất kho, trên đó có ghi cụ thể kho xuất, kho nhập, người xuất, người nhập, đơn giá…); chứng từ về số tiền Tuyến đã nộp và số hàng hóa còn lại trong kho sẽ ra số bị thiếu hụt (nếu có).
Đây chính là căn cứ mấu chốt để đối chiếu và làm rõ sự thật của vụ án. Bởi lẽ, nếu chỉ dựa vào các báo cáo từ phía chi nhánh thì rõ ràng đã thiếu đi sự khách quan, chỉ có hồ sơ của người mua, không có chứng từ của người bán, vụ án chỉ được xem xét 1 chiều, chưa làm rõ việc Cty có thực sự bị thiệt hại hay không?
“Nửa sự thật sẽ không còn là sự thật”. Trong khi không có các chứng từ của công ty để đối chiếu, so sánh như đã nói, căn cứ chính để buộc tội bị cáo là các báo cáo xuất, nhập hàng hóa, các biên bản kiểm tra định kỳ tại kho hàng do Tuyến phụ trách. Nhưng liệu những tài liệu này đã thực sự phản ánh đúng sự thật khách quan?
Trước hết, xét về mặt thời gian, đây đều là những chứng từ được lập sau, tổng hợp lại chứ không phải ngay tại thời điểm “xuất – nhập” hàng hóa. Độ tin cậy chắc chắn không thể bằng những phiếu xuất kho được lập cho từng ngày, từng chuyến hàng, có ghi cụ thể cả số xe vận chuyển, người vận chuyển.
Đặc biệt, trong hồ sơ vụ án, bản thân bị cáo Tuyến đã nhiều lần khai với CQĐT là: “quá trình Tuyến làm thủ kho từ tháng 4/2007 đến ngày 12/5/2016, Cty, chi nhánh không kiểm kê thực tế mà chỉ lấy số liệu trên sổ sách, báo cáo để làm biên bản kiểm kê”.
Nếu như hàng hóa cứ tuần tự, đúng quy trình đi từ kho của công ty nhập vào kho của Tuyến, nay bị thiếu hụt, Tuyến phải chịu trách nhiệm cũng là hợp lý. Tuy nhiên, điều “bất thường” nằm ở chỗ, ngoài kho của chi nhánh do Tuyến làm thủ kho. Gia đình bà Hoàng Thị Hòa – (SN 1960, trú tại Phố Tân thanh 1, thị trấn Văn Quan, huyện Văn Quan, nguyên trưởng chi nhánh) cũng kinh doanh mặt hàng này và có kho riêng tại nhà.
Tại biên bản làm việc (BL 300), Tuyến khai với CQĐT: “… lúc thì bà Hòa lấy hàng tại kho của tôi, lúc thì bà Hòa lấy hàng trực tiếp với công ty… Sau đó, bà Hòa có lúc nộp tiền trực tiếp với công ty, có lúc nộp tiền vào tài khoản của Cty tại ngân hàng, có lúc trực tiếp đưa tôi”.
Điều này trùng hợp với lời khai của bà Hòa. Tại BL 72, bà Hòa khai: “… Trong trường hợp kho (do Tuyến làm thủ kho – NV) đầy thì giữa tôi và anh Tuyến có thỏa thuận gửi bớt hàng sang kho nhà tôi…”;
BL 71: “Việc mua hàng, có lúc tôi mua trực tiếp từ kho của Tuyến, có lúc xe của công ty mang hàng xuống Văn Quan khi đi qua nhà thì tôi lấy luôn… Việc trả tiền hàng, có lúc tôi trả trực tiếp cho Tuyến, có lúc nộp trực tiếp cho công ty”.
Do đó, hoàn toàn có quyền đặt nghi vấn về độ tin cậy, lẫn tính chính xác của các báo cáo kiểm kê hàng hóa. Vai trò, trách nhiệm, liên quan của bà Hòa trong sự việc này đến đâu?
“Vải thưa” có che được mắt người phán xử?
Tại báo cáo tổng hợp (BL372), số phân bón còn tồn trong kho tại thời điểm ngày 1/1/2016 được ghi là 503,4 tấn. Điều khó hiểu là, mặc dù kiểm kê 1 số lượng phân bón lớn như vậy nhưng theo lời khai thì khi kiểm kê định kỳ, đoàn kiểm kê “chỉ trèo vào các hàng kiểm đếm” chứ không phải điều bớt hàng hóa sang khác kho khác. Thế nhưng vào tháng 5/2016 (sau khi bị cho là có thiếu hụt), số lượng hàng dù còn ít hơn rất nhiều (khoảng 150 tấn) thì lại phải “điều chuyển bớt” mới có thể kiểm kê?!
Mâu thuẫn nữa là, theo biên bản xác định hiện trường (BL 485-494), kho rộng 6,4m, sâu 16,25m, cao 3,8m. Dựa vào công thức tính thể tích thì nếu tính chật kho, cũng chỉ chứa được tối đa là gần 300 tấn. Càng khó hiểu hơn khi CQ CSĐT lại không tiến hành thực nghiệm để xác định rõ sự thực khách quan..
Cũng theo báo cáo kiểm kê thì chỉ từ tháng 1/2016-5/2016, kho của ông Tuyến đã bán được 452,748 tấn phân các loại (BL373). Số lượng này đã gần bằng chỉ tiêu giao khoán của cả năm?! (hơn 75%). Đây là 1 con số không bình thường. Đặc biệt khi so với số liệu cùng kỳ các năm trước đó.
Vô lý hơn khi con số thiếu hụt quá lớn mà Tuyến vi phạm lại chỉ rơi vào khoảng hơn 10 ngày đầu tháng 5/2016 (kết quả kiểm kê ngày 12/5/2016). Bởi theo báo cáo nhập xuất hàng hóa – hàng gửi kho (BL364,763) thì đến ngày 29/4/2016, 123 tấn lân hàng gửi kho vẫn còn “tồn trong kho” và trong kho lúc này vẫn còn 302,600 tấn phân bón bán lẻ (BL755,756).
Vậy, làm cách nào mà chỉ trong vòng mấy ngày đầu tháng 5, Tuyến lại có thể xuất “trót lọt” gần 300 tấn phân (trong đó có toàn bộ 123 tấn lân hàng gửi kho)? Điều này là hết sức vô lý. Nhất là khi ngay từ cuối tháng 4/2016, ông Hoàng Phong Kầm đã phát hiện “kho có dấu hiệu bất thường”. Và ngay từ ngày 3/5/2016 đã tiến hành điều chuyển bớt phân để tiến hành kiểm kê.
Đừng để người dân mất niềm tin vào công lý
Ngay từ năm 1946, trong sắc lệnh số 13 về tòa án do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký nêu rõ, “mỗi thẩm phán xử án quyết định theo pháp luật và lương tâm của mình”. Chỉ tiếc rằng xét xử theo lương tâm sau đó ở nhiều nơi đã không được áp dụng như một chuẩn mực trong thực tiễn hoạt động của tòa án ở Việt Nam.
Lương tâm không thay được pháp luật, nhưng nó là điều mách bảo thẩm phán phải làm gì đúng đắn nhất. Lương tâm thúc giục thẩm phán trước hết là con người nhìn vào một con người khi xét xử, soi rọi mọi ngóc ngách của vụ việc để xem có gì oan khuất đằng sau đó. Xét xử theo lương tâm, thẩm phán ra phán quyết xong có thể thanh thản với lương tâm của mình.
Kết quả của thái độ ứng xử công tâm của người thẩm phán đó là bản án mà tất cả mọi người đều “tâm phục, khẩu phục”, kể cả người phạm tội. Và, cũng từ những bản án được xét xử công tâm này mà pháp luật được tôn trọng, ý thức pháp luật được nâng cao và sức mạnh thuyết phục của các cơ quan tư pháp thực sự được tăng cường.
Nếu như cán cân công lý vì một “lý do”, “động cơ” nào đó bị thiên lệch thì cái mục đích của Tòa án là giữ sự công bằng cho xã hội, “biểu tượng của công lý” có đạt được không? Chắc chắn rằng, không phải cứ tuyên án là xong, bởi sau bản án là những số phận, nhưng con người, các phiên tòa của dư luận, đạo đức và lương tâm sẽ được mở ra và có những phán quyết của mình!