Công ty TNHH MTV Tổng Công ty Truyền hình Cáp Việt Nam (VTVcab) sẽ tổ chức phiên đấu giá cổ phần lần đầu ra công chúng (IPO) vào ngày 17/4.
|
Ảnh minh họa. (Nguồn: VTV) |
Sau thời gian chậm trễ cổ phần hóa do những khúc mắc trong việc định giá tài sản, mới đây Thủ tướng đã đồng ý gia hạn thời gian hoàn thành bán cổ phần lần đầu đối với công ty TNHH MTV Tổng Công ty Truyền hình Cáp Việt Nam (VTVcab) chậm nhất là đến ngày 30/6/2018.
Theo thông báo của Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội, với vốn điều lệ là 884 tỉ đồng là VTVcab dự kiến sau đấu giá sẽ bán ra hơn 42,29 triệu cổ phần (CP), tương đương 47,8% vốn điều lệ. Với mức giá khởi điểm lên đến 140.900 đồng, VTVCab được định giá lên đến 12.376 tỉ đồng và lượng cổ phần đấu giá có trị giá xấp xỉ 6.000 tỉ đồng.
Công ty TNHH một thành viên Tổng Công ty Truyền hình Cáp Việt Nam (VTVcab) có địa chỉ tại số 844 đường La Thành, phường Giảng Võ, quận Ba Đình, TP Hà Nội.
VTVcab kinh doanh chính trong lĩnh vực dịch vụ truyền hình trả tiền; điều hành hệ thống phát bằng cáp, hoạt động cung cấp dịch vụ truy cập internet bằng mạng viễn thông có dây...
Tiền thân của VTVCab là Trung tâm Kỹ thuật truyền hình Cáp (VCTV) đã tham gia ngành truyền hình trả tiền Việt Nam từ năm 1995. Với nguồn lực lớn từ Đài Truyền hình Việt Nam, VTVcab cùng SCTV xác lập vị thế vượt trội so với các đơn vị cùng ngành nhờ lợi thế vừa sản xuất nội dung vừa bán thuê bao.
Tuy nhiên, trong một vài năm trở lại đây, bức tranh kinh doanh của Công ty lại không mấy sáng sủa. Cụ thể, kết thúc năm 2016, công ty mẹ VTVcab ghi nhận 2.045 tỷ doanh thu thuần và 68,5 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế, lần lượt tăng trưởng 11,3% và 5% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, quan sát dài hơn từ năm 2014 có thể thấy, hoạt động kinh doanh của toàn hệ thống VTVCab không tăng trưởng, thậm chí lợi nhuận hợp nhất 2015 giảm so với 2014. Tính đến cuối năm 2016, nợ phải trả của VTVcab vào khoảng 1.936 tỉ đồng, chiếm đến 80% tổng nguồn vốn. Trong đó nợ ngắn hạn là 1.329 tỉ đồng, vượt quá tài sản ngắn hạn hơn 500 tỉ đồng khiến đơn vị kiểm toán lo ngại về khả năng thanh khoản của công ty.