Khi ông Huỳnh Văn Nén bị oan sai, khoản tiền bồi thường cho ông Nén được lấy từ đâu, và ai phải chịu trách nhiệm về khoản tiền này? Những thắc mắc này được pháp luật quy định rõ tại pháp luật dân sự, pháp luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước. Báo PLVN giới thiệu tới bạn đọc những nội dung cơ bản về quá trình hình thành và phát triển của các quy định về trách nhiệm hoàn trả, một số hạn chế, bất cập của quy định hiện hành về trách nhiệm hoàn trả, đề xuất một số hướng hoàn thiện.
“Hoàn trả”có thể hiểu là việc một người phải trả lại một khoản tiền cho người khác do trước đó đã mượn, vay hoặc trước đó đã được người khác trả hộ một khoản tiền. Trong trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, việc hoàn trả được hiểu là người thi hành công vụ phải hoàn trả lại cho Nhà nước một khoản tiền (toàn bộ hoặc một phần) mà Nhà nước đã bỏ ra để bồi thường cho người bị thiệt hại.
Có thể nói, quy định về trách nhiệm hoàn trả đã được hình thành từ rất sớm nhưng chính thức được khẳng định một cách rõ nét kể từ khi ban hành Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 1995. Theo đó, trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ không chỉ là nghĩa vụ của người thi hành công vụ mà đồng thời là trách nhiệm của cơ quan nhà nước yêu cầu người thi hành công vụ thực hiện, phải hoàn trả khoản tiền mà mình đã bồi thường cho người bị thiệt hại.
|
Ông Huỳnh Văn Nén (áo trắng) trong buổi xin lỗi diễn ra mới đây. |
Cụ thể, tại Điều 623 về bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước gây ra quy định: “Cơ quan nhà nước phải bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức của mình gây ra trong khi thi hành công vụ. Cơ quan nhà nước có trách nhiệm yêu cầu công chức, viên chức phải hoàn trả khoản tiền mà mình đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật, nếu công chức, viên chức có lỗi trong khi thi hành công vụ”.
Tinh thần đó cũng được thể hiện rõ trong việc cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm yêu cầu công chức, viên chức hoàn trả khoản tiền mà mình đã bồi thường cho người bị thiệt hại. Cụ thể, tại Điều 624 về bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra quy định: “Cơ quan tiến hành tố tụng phải bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.
Cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm yêu cầu người có thẩm quyền đã gây thiệt hại phải hoàn trả khoản tiền mà mình đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật, nếu người có thẩm quyền đó có lỗi trong khi thi hành nhiệm vụ”.
Để cụ thể hóa quy định tại BLDS năm 1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 47/CP của Chính phủ về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra (Nghị định số 47/CP).
Bên cạnh đó, Nghị quyết số 388 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra (Nghị quyết số 388) có quy định về nghĩa vụ hoàn trả, theo đó người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây oan do lỗi của mình trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự có nghĩa vụ hoàn trả theo quy định của pháp luật (Điều 16).
Đồng thời, về thẩm quyền quyết định hoàn trả tại Nghị quyết số 388 quy định quyền quyết định chủ yếu thuộc về cá nhân, trong đó giao trách nhiệm xác định trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ cho thủ trưởng cơ quan tiến hành tố tụng, hoặc thủ trưởng cơ quan cấp trên trực tiếp nếu thủ trưởng cơ quan có trách nhiệm bồi thường là người có nghĩa vụ hoàn trả (Điều 17).
BLDS năm 2005 về cơ bản có sự kế thừa các quy định của BLDS năm 1995, theo đó trách nhiệm hoàn trả được quy định không chỉ là một nghĩa vụ của người thi hành công vụ mà là trách nhiệm của cơ quan nhà nước phải yêu cầu người thi hành công vụ thực hiện: “Cơ quan, tổ chức quản lý cán bộ, công chức phải bồi thường thiệt hại do cán bộ, công chức của mình gây ra trong khi thi hành công vụ.
Cơ quan, tổ chức quản lý cán bộ, công chức có trách nhiệm yêu cầu cán bộ, công chức phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật, nếu cán bộ, công chức có lỗi trong khi thi hành công vụ” (Điều 619). Đồng thời, cơ quan tiến hành tố tụng phải bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của mình gây ra khi thực hiện nhiệm vụ trong quá trình tiến hành tố tụng. Cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm yêu cầu người có thẩm quyền đã gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật, nếu người có thẩm quyền có lỗi trong khi thi hành nhiệm vụ (Điều 620).
Trách nhiệm hoàn trả được chi tiết hoá tại các quy định cụ thể trong các văn bản hướng dẫn thi hành tại Nghị định số 16/2010/NĐ-CP ngày 03/3/2010 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 (Nghị định số 16) và tại Thông tư liên tịch số 04/2014/TTLT - BTP-TANDTC-VKSNDTC của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân Tối cao và Viện kiểm sát nhân dân Tối cao hướng dẫn thực hiện trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ. Theo đó, quy định về căn cứ xác định mức hoàn trả, trình tự, thủ tục xem xét trách nhiệm hoàn trả, trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ trong một số trường hợp cụ thể và hiệu lực của quyết định hoàn trả, khiếu nại, khiếu kiện quyết định hoàn trả.
(Còn tiếp)