Chuyên gia pháp lý nhận định, việc nhặt được của rơi không trả lại người đánh mất là hành vi vi phạm pháp luật, có thể phải đi tù.
Bạn đọc Lê Hằng (Xuân Lộc, Thường Xuân, Thanh Hóa) hỏi: Sau khi mổ lợn, gia đình tôi phát hiện "cát lợn" trong dạ dày lợn có giá trị kinh tế cao.
Do bất cẩn nên tôi đánh mất. Sau khi cả gia đình đổ xô đi tìm hai ngày không thấy thì chúng tôi phát hiện vật này đang được anh S. (hàng xóm) cất giữ tại nhà anh.
Chúng tôi xin lại vật đã đánh mất nhưng không được anh S. đồng ý. Xin hỏi về mặt pháp luật, chúng tôi có thể đòi lại tài sản này không? Việc nhặt được của đánh mất mà không trả lại có vi phạm pháp luật không? Nếu có thì sẽ bị xử lý như thế nào?
|
Hình minh họa. |
Thạc sĩ, luật sư Đặng Văn Cường – Đoàn luật sư TP Hà Nội trả lời: Vụ việc trên là tranh chấp về quyền sở hữu tài sản, vì vậy các bên không tự thỏa thuận được để giải quyết và có yêu cầu thì Tòa án sẽ thụ lý giải quyết vụ việc theo thủ tục tố tụng dân sự.
Để giải quyết vụ việc trên, trước tiên cần xác định đối tượng là tài sản đó trị giá bao nhiêu và việc xác lập quyền sở hữu tài sản được xác định như thế nào.
Đối với người đang sở hữu con lợn đó, nếu mổ lợn thì toàn bộ những bộ phận có thể sử dụng hoặc đem bán đều được xác định là tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của chủ sở hữu con lợn đó.
Nếu chủ sở hữu con lợn đó biết được trong dạ dày có “cát lợn” và có ý định lấy nó nhưng sau đó bất cẩn để mất thì có quyền đòi lại. Thủ tục đòi là kiện đòi tài sản theo quy định của bộ luật dân sự hiện hành. Theo đó, người nhặt được tài sản do người khác bỏ quên, đánh rơi, chôn giấu, chìm đắm chỉ được sở hữu tài sản đó khi đã trình báo công khai mà không tìm thấy chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu không nhận lại tài sản đó.
Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: Điều 164. Biện pháp bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản:
1. Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền tự bảo vệ, ngăn chặn bất kỳ người nào có hành vi xâm phạm quyền của mình bằng những biện pháp không trái với quy định của pháp luật.
2. Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Điều 166. Quyền đòi lại tài sản: 1. Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật.
2. Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ sự chiếm hữu của chủ thể đang có quyền khác đối với tài sản đó.
Điều 229. Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm được tìm thấy:
1. Người phát hiện tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phải thông báo hoặc trả lại ngay cho chủ sở hữu; nếu không biết ai là chủ sở hữu thì phải thông báo hoặc giao nộp cho Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi gần nhất hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật.
2. Tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm được tìm thấy mà không có hoặc không xác định được ai là chủ sở hữu thì sau khi trừ chi phí tìm kiếm, bảo quản, quyền sở hữu đối với tài sản này được xác định như sau:
a) Tài sản được tìm thấy là tài sản thuộc di tích lịch sử - văn hóa theo quy định của Luật di sản văn hóa thì thuộc về Nhà nước; người tìm thấy tài sản đó được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của pháp luật;
b) Tài sản được tìm thấy không phải là tài sản thuộc di tích lịch sử - văn hóa theo quy định của Luật di sản văn hóa mà có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì thuộc sở hữu của người tìm thấy;
|
Luật sư Đặng Văn Cường. |
Nếu tài sản tìm thấy có giá trị lớn hơn mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì người tìm thấy được hưởng giá trị bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định và 50% giá trị của phần vượt quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định, phần giá trị còn lại thuộc về Nhà nước.
Điều 230. Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên: 1. Người phát hiện tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên mà biết được địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc trả lại tài sản cho người đó;
Nếu không biết địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc giao nộp cho Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi gần nhất để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại. Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã đã nhận tài sản phải thông báo cho người đã giao nộp về kết quả xác định chủ sở hữu.
2. Sau 01 năm, kể từ ngày thông báo công khai về tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên mà không xác định được chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu không đến nhận thì quyền sở hữu đối với tài sản này được xác định như sau:
a) Trường hợp tài sản bị đánh rơi, bỏ quên có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì người nhặt được được xác lập quyền sở hữu đối với tài sản đó theo quy định của Bộ luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan;
Trường hợp tài sản có giá trị lớn hơn mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì sau khi trừ chi phí bảo quản, người nhặt được được hưởng giá trị bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định và 50% giá trị của phần vượt quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định, phần giá trị còn lại thuộc về Nhà nước;
b) Trường hợp tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên là tài sản thuộc di tích lịch sử - văn hóa theo quy định của Luật di sản văn hóa thì tài sản đó thuộc về Nhà nước; người nhặt được tài sản được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của pháp luật.
Trường hợp nhặt được tài sản, xác định được chủ tài sản nhưng không trả lại, không giao cho cơ quan công an thì là hành vi vi phạm pháp luật. Trong trường hợp này thì chủ sở hữu tài sản có quyền khởi kiện để buộc người đó phải trả lại tài sản cho mình.
Nếu người đó cố tình sử dụng tài sản dẫn đến không còn khả năng trả lại tài sản mà tài sản trị giá từ 50.000.000 trở lên thì người đó có thể bị khởi tố về tội sử dụng trái phép tài sản.