Bộ luật tố tụng Dân sự 2015 và Luật tố tụng Hành chính 2015, có hiệu lực từ ngày 1/7/2016, quy định việc gửi, nhận đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ và cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng bằng phương tiện điện tử. Vậy, việc khởi kiện online sẽ được thực hiện như thế nào? Liệu người dân có thể yên tâm khi khởi kiện online?
|
Người dân có thể nộp đơn kiện qua mạng. Ảnh minh họa |
Theo quy định tại Điều 176, điểm c khoản 1 Điều 190 BLTTDS và Điều 105 LTTHC thì Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) có trách nhiệm hướng dẫn thi hành thủ tục gửi, nhận đơn khởi kiện, tài liệu chứng cứ; cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng bằng phương tiện điện tử.
Hiện, TANDTC đang xây dựng Nghị quyết hướng dẫn thực hiện nội dung này. Theo nhận định của TANDTC, việc xây dựng Nghị quyết sẽ đặt nền tảng ban đầu cho việc đẩy mạnh phát triển Tòa án điện tử, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Tòa án, phục vụ người dân và doanh nghiệp ngày càng tốt hơn, từng bước công khai, minh bạch hoạt động của Tòa án trên môi trường mạng theo yêu cầu tại Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Giao dịch điện tử 24/7 Dự thảo quy định, người khởi kiện, đương sự, người tham gia tố tụng khác thực hiện giao dịch điện tử với Tòa án phải có đủ các điều kiện sau: 1- Có địa chỉ thư điện tử chính thức để gửi, nhận tài liệu, chứng cứ, văn bản tố tụng đến và đi từ Cổng thông tin điện tử của Tòa án; 2- Có chữ ký điện tử được chứng thực bằng chứng thư điện tử đang còn hiệu lực do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp, công nhận; 3- Thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử và hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao.
Người khởi kiện, đương sự, người tham gia tố tụng khác thực hiện giao dịch điện tử với Tòa án phải sử dụng chữ ký điện tử được ký bằng chứng thư điện tử do cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực cấp, công nhận.
Người khởi kiện, đương sự, người tham gia tố tụng khác được thực hiện các giao dịch điện tử 24 giờ trong ngày và 7 ngày trong tuần, bao gồm cả ngày nghỉ, ngày lễ và ngày Tết.
Ngày gửi thông điệp dữ liệu điện tử của người khởi kiện, đương sự, người tham gia tố tụng khác được xác định là ngày Cổng thông tin điện tử của Tòa án tự động thông báo giao dịch điện tử thành công, trừ trường hợp hệ thống hạ tầng kỹ thuật của Cổng thông tin điện tử gặp sự cố thì ngày gửi, nhận thông điệp dữ liệu điện tử được xác định là ngày thực tế thông điệp dữ liệu điện tử đó được gửi vào hệ thống của người nhận. Tài liệu online có được coi là chứng cứ?
Liên quan đến vấn đề giao, nộp cung cấp bản chính hoặc bản sao hợp pháp tài liệu, chứng cứ tại Tòa án để lưu hồ sơ vụ án, có nhiều ý kiến khác nhau.
Có quan điểm cho rằng, quy định người khởi kiện, đương sự, người tham gia tố tụng khác được nộp đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án nhằm rút ngắn thời gian, chi phí và số lần họ phải đến Tòa án, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nộp đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ.
Theo quy định tại các Điều 11, 12, 13 và Điều 14 Luật giao dịch điện tử thì tài liệu, chứng cứ được gửi đến Cổng thông tin điện tử của Tòa án có giá trị như bản gốc và có giá trị làm chứng cứ nếu đáp ứng đủ điều kiện pháp luật quy định.
Do vậy, việc yêu cầu người khởi kiện, đương sự, người tham gia tố tụng khác phải nộp tài liệu, chứng cứ là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp (đối với tài liệu, chứng cứ đọc được), phải nộp hiện vật gốc của chứng cứ (đối với tài liệu, chứng cứ là vật chứng; tài liệu nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử khác) là không cần thiết và trái với quy định của Luật giao dịch điện tử.
Trường hợp này, Tòa án sẽ in đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ đã được gửi qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án để lưu hồ sơ vụ án.
Tuy nhiên, nhiều chuyên gia pháp lý lại có quan điểm cho rằng, tài liệu, chứng cứ điện tử mà người khởi kiện, đương sự, người tham gia tố tụng khác gửi qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án hay tài liệu, chứng cứ họ nộp trực tiếp cho Tòa án cũng chỉ là nguồn chứng cứ mà chưa phải là chứng cứ.
Để chứng minh một thông điệp giữ liệu điện tử có giá trị làm chứng cứ phải thông qua quy trình kỹ thuật phức tạp do các chuyên gia trong lĩnh vực công nghệ thông tin thực hiện.
Xuất phát từ đặc thù của hoạt động tố tụng đó là khi xét xử Tòa án phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã thu thập được và đã được xem xét, kiểm tra tại phiên tòa cũng như kết quả tranh tụng tại phiên tòa để ra bản án, quyết định, trong trường hợp xét thấy cần phải kiểm tra, xác minh, đối chiếu tài liệu, chứng cứ thì Tòa án có quyền yêu cầu người khởi kiện, đương sự, người tham gia tố tụng khác nộp tài liệu, chứng cứ là bản chính hoặc bản sao hợp pháp (đối với tài liệu, chứng cứ đọc được) hoặc phải nộp hiện vật gốc của chứng cứ (đối với tài liệu, chứng cứ là vật chứng; tài liệu nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử khác).
Trường hợp xét thấy cần phải lưu tài liệu, chứng cứ để có điều kiện xem xét, đánh giá khách quan, công khai tại phiên họp, phiên tòa thì Tòa án mới quyết định lưu tài liệu, chứng cứ đó vào hồ sơ vụ án.
Quy định này là phù hợp với quy định của Luật giao dịch điện tử, pháp luật tố tụng và bảo đảm cho Tòa án giải quyết vụ án được khách quan, đúng pháp luật.
Đây chính là quan điểm được đưa vào dự thảo Nghị quyết hướng dẫn thi hành thủ tục gửi, nhận đơn khởi kiện, tài liệu chứng cứ; cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng bằng phương tiện điện tử.B