Do việc sang nhượng không thực hiện được nên ông Vinh khởi kiện yêu cầu bà Bình phải trả lại 5 tỷ đồng tiền đặt cọc.
VKSND huyện Bắc Tân Uyên (Bình Dương) vừa có kháng nghị toàn bộ nội dung Bản án dân sự sơ thẩm số 15/2017DSST ngày 21/9/2017 của TAND huyện Bắc Tân Uyên, đề nghị TAND tỉnh Bình Dương xét xử phúc thẩm theo hướng hủy bản án sơ thẩm do có vi phạm nghiêm trọng tố tụng và xét xử thiếu khách quan.
|
Khu đất bà Lan và bà Bình bán cho ông Vinh. |
Không mua được đất, vẫn bị tòa tuyên mất tiền đặt cọc
Theo hồ sơ, bà Lý Tuyết Bình và bà Lê Thị Hương Lan (ngụ phường An Phú, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương) cùng sang nhượng cho ông Lê Quang Vinh (SN 1967, khu phố Đông Chiêu, phường Tân Đông Hiệp, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương) các thửa đất số 49 tờ bản đồ 38; thửa 524 tờ bản đồ 38 (do bà Bình đứng tên) và thửa 523 tờ bản đồ 38 (do bà Lan đứng tên).
Tổng diện tích các thửa trên là 16.426,7m2, trong đó đất ở nông thôn là 400m2 (diện tích còn lại là đất trồng cây lâu năm) tại xã Đất Cuốc, huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Giá chuyển nhượng là 25 tỷ đồng. Ngày 12/01/2017, ông Lê Quang Vinh đặt cọc 5 tỷ đồng cho bà Bình.
Các bên cam kết, số tiền còn lại của hợp đồng sẽ được thanh toán vào ngày 12/04/2017; Bên B (bên bán) chia tách nhiều thửa đất nhỏ và lăn tay công chứng cho bên A (bên mua) khi bên A có nhu cầu (chi phí bên A chịu theo quy định)…
Bên A đã biết phần diện tích từ ngoài mặt đường DH411 vào 100m trở về sau (85m còn lại) là thuộc diện quy hoạch mở rộng KCN Đất Cuốc. Bên A đồng ý mua và không có tranh chấp về sau…
Ngày 12/4/2017 ông Vinh cùng bà Bình, bà Lan cùng đến Văn phòng Công chứng để ký hợp đồng chuyển nhượng nhưng bị từ chối công chứng do các thửa đất nằm trong quy hoạch và đã có Văn bản ngăn chặn số 58/UBND- ĐC (28/3/2017) của UBND xã Đất Cuốc về việc xem xét không thực hiện biến động đối với các thửa 523, 524 tờ bản đồ số 3.
Do việc sang nhượng này không thực hiện được nên ông Vinh khởi kiện yêu cầu bà Bình phải trả lại 5 tỷ đồng tiền đặt cọc. Bà Bình không đồng ý và cho rằng, trong quá trình thực hiện giao dịch này ông Vinh biết rất rõ một phần đất nằm trong quy hoạch nhưng vẫn đồng ý sang nhượng và ký trong giấy nhận tiền đặt cọc với cam kết không khiếu nại gì về sau.
Ngoài ra, việc UBND xã Đất Cuốc có ra Công văn số 58/UBND-ĐC ngày 28/3/2017 về việc xem xét không thực hiện biến động đối với các thửa 523, 524 tờ bản đồ số 38 là theo yêu cầu của ông Vinh.
Ngày 21/9/2017, TAND huyện Bắc Tân Uyên có Bản án số 15/2017/DSST tuyên đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của ông Vinh về việc yêu cầu hủy giấy nhận tiền đặt cọc ngày 12/01/2017; Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của ông Vinh đối với việc rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền 200 triệu đồng; Không chấp nhận yêu cầu của ông Vinh về việc buộc bà Bình và bà Lan trả lại 4,8 tỷ đồng.
VKS: Tòa vi phạm tố tụng, phán quyết không khách quan
Theo kháng nghị của VKSND huyện Bắc Tân Uyên, việc Tòa án căn cứ giấy nhận tiền đặt cọc vào ngày 12/01/2017 (có cam kết: “Bên B chia tách nhiều thửa đất nhỏ và lăn tay công chứng cho bên A khi bên A có nhu cầu, chi phí bên A chịu theo quy định) để nhận định ông Vinh là người có lỗi là chưa khách quan.
Trong trường hợp này, giả sử ông Vinh có yêu cầu bà Bình, bà Lan thực hiện việc tách thửa này thì bà Bình, bà Lan trước khi thực hiện phải đến các cơ quan có thẩm quyền để hỏi xem các thửa đất nêu trên có được tách thửa hay không, nếu tách thửa được thì tách được bao nhiêu thửa, diện tích tối thiểu để tách thửa…
Việc này cũng có phần lỗi của bà Bình, bà Lan vì thực tế các thửa đất trên vẫn chưa sang tên cho ông Vinh. Bà Bình, bà Lan vẫn là chủ sử dụng, đồng thời là người ký tên trong các thủ tục xin tách thửa.
Vậy, Tòa án xác định lỗi của ông Vinh trong trường hợp này là chưa đảm bảo căn cứ. Trong trường hợp này lỗi là của cả ông Vinh và bà Bình, bà Lan.
Thứ nhất, lỗi ông Vinh là đã yêu cầu bà Bình, bà Lan tách thửa nhưng không nói rõ tách bao nhiêu thửa và diện tích tối thiểu để tách thửa.
Trong khi đó, bà Bình và bà Lan khi sang nhượng đất cho ông Vinh tại sao không sang nguyên thửa để cho ông Vinh tự tách thửa mà lại tách thửa theo yêu cầu của ông Vinh mới sang nhượng, đồng thời không tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn mà làm theo yêu cầu này của ông Vinh.
Tòa nhận định giấy nhận tiền đặt cọc vào ngày 12/01/2017 không bị vô hiệu nếu việc chia tách thành nhiều thửa đảm bảo được diện tích tối thiểu theo quy định của pháp luật.
Theo Viện kiểm sát, việc nhận định này là chưa chính xác bởi vì hai bên có thỏa thuận tách thửa nhưng không thỏa thuận diện tích tối thiểu là bao nhiêu và việc thỏa thuận này có phù hợp với quy định của pháp luật không.
Trong khi diện tích tối thiểu để tách thửa chưa cụ thể là trái với quy định của pháp luật. Về tố tụng, VKSND huyện Bắc Tân Uyên cho rằng: Tòa án nhận định đơn khởi kiện bổ sung của nguyên đơn nộp sau khi tòa án mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai, chứng cứ nên đã áp dụng Điều 200 của BLTTDS 2015 (quy định đối với quyền yêu cầu phản tố của bị đơn) để đình chỉ khởi kiện bổ sung này của nguyên đơn là không chính xác.
Điều 200 của BLTTDS 2015 quy định áp dụng đối với bị đơn thì tòa án lại vận dụng áp dụng cho nguyên đơn là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Thứ hai: Việc Tòa án căn cứ Điều 358 của BLDS 2005 xử lý trong trường hợp này là không đúng theo quy định.
Thứ ba: Ngày 08/1/2017 Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử vào ngày 11/8/2017 và giao hồ sơ cho Viện kiểm sát vào cùng ngày.
Đến ngày 09/8/2017 Tòa án nhận được Công văn số 1743/UBND-NC ngày 09/8/2017 của UBND huyện Bắc Tân Uyên (phúc đáp văn bản của Tòa) và ra Thông báo số 98 (10/8/2017) về việc thu thập được tài liệu, chứng cứ cho các đương sự biết nhưng không thông báo VKS biết về việc thu thập được các chứng cứ này.
Ngày 11/8/2017, vụ án được xét xử nhưng Tòa án hoãn phiên tòa do có đương sự vắng mặt lần thứ 1. Cũng trong ngày này, Tòa án đã cho đương sự tiếp cận chứng cứ mới, tuy nhiên lại không thông báo cho VKS và không công bố tại phiên tòa làm ảnh hưởng đến toàn bộ nội dung vụ án.